Điểm tin báo chí từ ngày 27 tháng 01 đến ngày 05 tháng 02 năm 2014 và sáng ngày 06 tháng 02 năm 2014

06/02/2014
Trong các ngày từ 27/01 - 05/02 và đầu giờ sáng ngày 06/02/2013, một số báo đã có bài phản ánh những thông liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Pháp luật và Xã hội có bài Hoàn thành tổng rà soát văn bản luật trước tháng 6/2014. Bài báo đưa tin: Trả lời phỏng vấn báo chí, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường cho biết năm 2014 ngành này sẽ đảm nhiệm vai trò quan trọng trong việc tổng rà soát văn bản pháp luật nhằm triển khai Hiến pháp mới.

Trả lời báo điện tử Đảng Cộng sản, Bộ trưởng Hà Hùng Cường cho biết, để các quy định của Hiến pháp đi vào cuộc sống, bảo đảm Hiến pháp là đạo luật cơ bản, bảo đảm tính hợp hiến, nhiệm vụ của tất cả các cơ quan thuộc Chính phủ năm 2014 là tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp sửa đổi.

Bộ trưởng nói: "Chính phủ tới đây sẽ ban hành Kế hoạch triển khai Hiến pháp năm 2013, trong đó, một nhiệm vụ được ưu tiên hàng đầu là các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND các cấp có trách nhiệm rà soát và lập, công bố danh mục các quy định, văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, HĐND, UBND các cấp ban hành có nội dung không còn phù hợp với các quy định của Hiến pháp".

Việc rà soát này được dự kiến phải hoàn thành trước tháng 6/2014.

Trên cơ sở các danh mục văn bản đã rà soát được công bố, các cơ quan có thẩm quyền liên quan sẽ tiến hành việc bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản mới để phù hợp với Hiến pháp. Theo bộ trưởng Hà Hùng Cường, năm 2014, bộ này sẽ tham gia vào quá trình "tổng rà soát" văn bản pháp luật nêu trên theo chức năng, nhiệm vụ của mình. 

Cũng theo thông tin từ người đứng đầu Bộ Tư pháp, một số lượng lớn các luật, bao gồm: luật về tổ chức bộ máy nhà nước, về quản lý kinh tế- xã hội, nhất là quản lý tài sản nhà nước, đầu tư công, luật về quyền con người, quyền cơ bản của công dân - sẽ được soạn thảo trình Quốc hội trong năm 2014.

2. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Tăng thẩm quyền chứng thực cho cấp xã. Bài báo phản ánh: Ông Lê Trọng Vinh chia sẻ: “Các tỉnh miền núi đưa ra văn bản tiếng Anh sợ rằng cả huyện không có ai dịch được chứ đừng nói tới cấp xã” nên nếu “đẩy” xuống cấp xã sẽ không ổn.

Theo quy định hiện hành, việc chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản bằng tiếng nước ngoài và giấy tờ, văn bản song ngữ thuộc thẩm quyền của Phòng Tư pháp. Điều đó gây không ít khó khăn cho người dân và khiến nhiều Phòng Tư pháp luôn nằm trong tình trạng quá tải. Vì thế, Bộ Tư pháp đang nghiên cứu trình Chính phủ sửa đổi quy định này theo hướng không phân biệt thẩm quyền chứng thực bản sao từ bản chính giấy tờ, văn bản bằng tiếng nước ngoài/song ngữ/tiếng Việt.

Trước đây, Thông tư số 03/2008/TT-BTP hướng dẫn thẩm quyền chứng thực bản sao đối với các giấy tờ, văn bản có tính chất song ngữ, trong đó có ghi đầy đủ bằng cả tiếng Việt và tiếng nước ngoài thì người yêu cầu chứng thực được lựa chọn chứng thực tại Phòng Tư pháp cấp huyện hoặc UBND cấp xã. 

Còn tại Nghị định số 04/2012/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Điều 5 của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký thì việc chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản bằng tiếng nước ngoài và giấy tờ, văn bản song ngữ thuộc thẩm quyền của Phòng Tư pháp. 

Nghĩa là, khi có yêu cầu chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản song ngữ, người dân bắt buộc phải đến Phòng Tư pháp mà không được lựa chọn như trước đây. 

Trong khi đó, trên thực tế hầu hết các văn bằng, chứng chỉ hiện nay đều được cấp dưới dạng song ngữ. Ngoài ra, khi thực hiện chứng thực, người dân thường sẽ yêu cầu chứng thực nhiều loại giấy tờ, văn bản khác nhau (không chỉ giấy tờ, văn bản song ngữ) nên xuất phát từ quy định trên, đa số nhu cầu chứng thực của người dân được dồn đến Phòng Tư pháp, gây quá tải cho Phòng Tư pháp và phiền hà, tốn kém cho người dân cả về thời gian và kinh phí. 

Về bản chất pháp lý, chứng thực là việc cơ quan hành chính nhà nước xác nhận tính chính xác, tính có thực của các văn bản, giấy tờ được chứng thực so với bản chính; nhiệm vụ của người thực hiện chứng thực là kiểm tra, đối chiếu, bảo đảm nội dung của bản sao văn bản, giấy tờ đúng với bản chính. 

Do đó, khi thực hiện chứng thực bản sao từ bản chính đối với văn bản, giấy tờ bằng tiếng nước ngoài hay song ngữ, quy trình thực hiện cũng tương tự như đối với văn bản, giấy tờ bằng tiếng Việt. 

Để tháo gỡ những vướng mắc trên, Bộ Tư pháp được giao chủ trì soạn thảo Nghị định về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch, thay thế cho Nghị định số 79/2007/NĐ-CP; Nghị định số 04/2012/NĐ-CP và Nghị định số 75/2000/NĐ-CP. Theo Dự thảo Nghị định, UBND cấp huyện và UBND cấp xã có thẩm quyền chứng thực bản sao như nhau, không phân biệt chứng thực bản sao từ bản chính giấy tờ, văn bản bằng tiếng nước ngoài/song ngữ/tiếng Việt, nhằm giúp cho người dân đỡ mất chi phí, thời gian đi lại. 

Tuy nhiên, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế (Bộ Nội vụ) Lê Trọng Vinh cho rằng, tình trạng quá tải chứng thực giấy tờ song ngữ chỉ xuất hiện ở Phòng Tư pháp các thành phố lớn, chứ nhiều nơi “có khi cả tháng chả có việc gì”. 

Bên cạnh đó, về thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch của UBND, Nghị định số 75/2000/NĐ-CP quy định như sau: UBND cấp huyện chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến động sản có giá trị dưới 50 triệu đồng, chứng thực văn bản thỏa thuận phân chia di sản, văn bản khai nhận di sản; UBND cấp xã chứng thực di chúc, văn bản từ chối nhận di sản. Như vậy, ngoài tổ chức hành nghề công chứng, đối với những địa bàn chưa chuyển giao việc chứng thực hợp đồng, giao dịch từ UBND sang các tổ chức hành nghề công chứng thì UBND cấp huyện có thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến động sản có giá trị dưới 50 triệu đồng. 

Có điều, trên thực tế tài sản là động sản có giá trị dưới 50 triệu đồng như một số loại xe máy, ti vi, điện thoại... là đối tượng giao dịch thường xuyên của người dân. Đây là loại giao dịch không phức tạp, tài sản có giá trị thấp, nhân thân người tham gia giao dịch rõ ràng, tần suất thực hiện giao dịch cao. Việc yêu cầu người dân đến tổ chức công chứng, UBND cấp huyện thực hiện hợp đồng, giao dịch vừa gây phiền hà, tốn kém cho người dân, vừa không phù hợp tính chất của giao dịch. 

Do đó, cần phân cấp thẩm quyền chứng thực loại việc này cho UBND cấp xã - cấp chính quyền cơ sở gần dân nhất, nắm rõ thân nhân người giao dịch và tài sản giao dịch - thực hiện sẽ phù hợp và thuận lợi hơn cho người dân. Đặc biệt, sau khi Thông tư số 36/2010/TT-BCA của Bộ Công an quy định về đăng ký xe có hiệu lực thi hành (ngày 16/12/2010), nhiều UBND cấp xã đã thực hiện chứng thực chữ ký trên giấy tờ mua bán xe.

Hơn nữa, trong cuộc sống phát sinh nhiều vụ việc mà các cá nhân ủy quyền cho nhau thực hiện. Có nhiều trường hợp ủy quyền không có thù lao, không có nghĩa vụ bồi thường của bên được ủy quyền, không liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng bất động sản như ủy quyền lĩnh lương hưu, trợ cấp, ủy quyền nhận bưu phẩm, ủy quyền nộp hồ sơ… Vì ủy quyền là một loại giao dịch nên theo quy định hiện hành, UBND cấp xã không được chứng thực giấy ủy quyền. Mặc dù vậy, trên thực tế để tạo thuận lợi cho người dân, tại một số địa phương UBND cấp xã đã vận dụng việc chứng thực chữ ký trên loại giấy tờ này. 

Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu của cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi tối đa cho người dân, tránh làm phức tạp hóa các quan hệ dân sự có tính chất đơn giản, đồng thời tránh việc phải thực hiện pháp luật theo hướng vận dụng dễ gây rủi ro cho các giao dịch, cần thiết quy định việc giao thẩm quyền chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến động sản dưới 50 triệu đồng cho UBND cấp xã trong Dự thảo Nghị định. 

Dẫn chứng việc mua bán xe máy có giá trị lớn – xe SH chẳng hạn - mà ra công chứng thì mất nhiều tiền, trong khi ra UBND xã mất có 10 nghìn, gây thất thu ngân sách nên có ý kiến đề nghị “nơi nào chưa có công chứng mới giao cho xã”. Một số ý kiến khác lại băn khoăn vì khó phân định được các động sản dưới 50 triệu đồng như chiếc xe máy 49 triệu hay 50 triệu còn phụ thuộc thời điểm mua bán, nơi mua bán…, điển hình là giá vàng rất khác nhau ở từng địa điểm mua bán. Do vậy, “việc xác nhận hợp đồng mua bán xe là thẩm quyền công chứng làm” – các ý kiến này nhấn mạnh.  

II- THÔNG TIN KHÁC

1. Báo Điện tử Chính phủ đưa tin Ngày nghỉ Tết xảy ra 530 vụ TNGT. Theo Ủy ban ATGT quốc gia, trong 8 ngày nghỉ Tết (từ 28/1 - 4/2, tức  28 Tết đến mùng 5 Tết), toàn quốc xảy ra 530 vụ TNGT, làm chết 253 người, bị thương 563 người; so với cùng kỳ năm 2013 tăng 116 vụ, giảm 56 người chết, tăng 230 người bị thương.

Tính riêng ngày mùng 5 Tết, cả nước xảy ra 72 vụ TNGT, làm chết 41 người, bị thương 82 người (trong đó có 34 vụ va chạm, làm bị thương 41 người).

Các lực lượng chức năng đã kiểm tra, xử lý 2.064 trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông, thu nộp kho bạc Nhà nước 498 triệu đồng, tạm giữ 951 xe mô tô...

Trong đợt cao điểm hoạt động vận tải phục vụ Tết Giáp Ngọ, các ngành Công an, Giao thông vận tải, nhất là CSGT, Cảnh sát trật tự, thanh tra giao thông và các doanh nghiệp vận tải đã triển khai thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp phục vụ nhân dân đi lại thuận tiện, an toàn...

Tuy nhiên, TNGT vẫn ở mức cao, có tới 253 người chết trong 8 ngày nghỉ Tết;  tình trạng tăng giá vé ô tô, chở quá số người quy định tuy có giảm nhưng vẫn còn xảy ra.

2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Đa số các cơ quan nhà nước né giải trình qua báo chí. Theo quy định tại Luật Báo chí 1989 và Nghị định 51/2002 hướng dẫn thi hành Luật Báo chí thì báo chí có trách nhiệm tiếp nhận các kiến nghị, phê bình, khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến rồi thông qua việc phản ánh trên báo hoặc chuyển tiếp bằng văn bản, báo chí có quyền yêu cầu các tổ chức, người có chức vụ, quyền hạn của Đảng, cơ quan nhà nước xử lý và thông báo kết quả hoặc biện pháp giải quyết trong thời hạn 30 ngày…

Để làm rõ thực trạng thực thi các quy định trên, trong khoảng thời gian bốn tháng (từ tháng 8 đến 11-2013) nhóm chuyên gia của dự án đã khảo sát 279 nhà báo đang hoạt động trong các lĩnh vực xử lý đơn thư, điều tra, kinh tế… đang hoạt động ở 19 tỉnh, TP trên toàn quốc, đồng thời phỏng vấn lãnh đạo nhiều cơ quan báo chí, đài truyền hình và đại diện các cơ quan nhà nước phụ trách các lĩnh vực, địa bàn nóng…

Kết quả cho thấy: Mức độ phản hồi của tổ chức, cơ quan nhà nước đối với các kiến nghị, phê bình, khiếu nại, tố cáo của công dân được báo chí phản ánh khá thấp, số phản hồi đúng thời hạn chỉ đạt 25% và 75% chỉ là các thông tin chung chung.



File đính kèm