Điểm tin báo chí sáng ngày 22 tháng 01 năm 2014

22/01/2014
Trong ngày 21/01 và đầu giờ sáng ngày 22/01/2013, một số báo đã có bài phản ánh những thông liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Trang ndh.vn có bài Cưỡng chế thu hồi tài sản thế chấp: Con nợ chây ỳ, ngân hàng phải "cao tay". Bài báo phản ánh: Viện lý do kinh doanh thua lỗ, nhiều doanh nghiệp (DN) đã chây ỳ không trả nợ, khiến ngân hàng buộc phải khởi kiện, bắt giữ tài sản bảo đảm. Thực tế, khi tài sản có tranh chấp pháp lý hoặc DN "có vấn đề", nếu ngân hàng không "cao tay" thì rất khó bắt giữ, xử lý tài sản.

Theo quy định về xử lý nợ xấu, ngân hàng phải khởi kiện DN ra tòa, yêu cầu tòa tuyên kê biên, phát mại tài sản bảo đảm để trả nợ. Tuy nhiên, quá trình khởi kiện đòi nợ sẽ kéo dài hàng năm trời, tài sản bảo đảm có thể bị giảm giá trị, "bốc hơi" hay tài sản bị tẩu tán mất. Nợ xấu càng khó đòi hơn khi phát sinh các tranh chấp, khiếu kiện.

Mới đây, Chi cục Thi hành án dân sự Tp.Việt Trì (Phú Thọ) đã rầm rộ ra quân cưỡng chế, thu giữ tòa nhà trụ sở Công ty CP Thương mại Việt Hưng, để thu hồi nợ cho Ngân hàng Vietinbank chi nhánh Phú Thọ. Tòa nhà này cùng nhiều xe ôtô, máy móc, cần cẩu… lần lượt bị kê biên, bán đấu giá, để trả số nợ gốc hơn 10,9 tỷ đồng (lãi phát sinh hơn 6 tỷ đồng) theo Quyết định số 16 ngày 23/7/2013 công nhận thỏa thuận hòa giải giữa 2 bên.

Sự việc trở nên căng thẳng khi xử lý đến tài sản là trụ sở công ty, phía DN bất ngờ có đơn kháng nghị, không công nhận biên bản thỏa thuận hòa giải, vì Giám đốc Nguyễn Minh Sơn, người kí văn bản không phải là Người đại diện theo pháp luật của DN. Việc cưỡng chế tài sản theo Quyết định số 16 là sai luật.

Thế nhưng, cơ quan Thi hành án đã "nhanh tay" tiến hành thủ tục phát mại, bán đấu giá trụ sở công ty. Người mua trúng đấu giá là Ngân hàng Vietinbank, đã chuyển đủ tiền (11,5 tỷ đồng).

Căn cứ theo khoản 24b, Điều 1 (Nghị định 125/2013/NĐ-CP của Chính Phủ), cơ quan Thi hành án được phép thu giữ, giao tài sản bán đấu giá cho ngân hàng, kể cả áp dụng biện pháp cưỡng chế. Dù vụ án khởi kiện có kháng nghị, tạm dừng thi hành án, nhưng thông qua đấu giá, ngân hàng vẫn "tóm" được tài sản của con nợ. Đây cũng là chiêu đòi nợ mà nhiều ngân hàng áp dụng để thu hồi tài sản nhanh chóng.

Theo một số cán bộ ngân hàng, thực tế đi thu hồi tài sản bảo đảm rất phức tạp, con nợ "cố thủ" không giao tài sản, Nhiều tài sản có tranh chấp nên cũng không bắt giữ được. Do đó, các chủ nợ phải vận dụng khéo léo các quy định về xử lý tài sản bán đấu giá trong thi hành án để "bắt" tài sản. Vấn đề là ai nhanh tay hơn trong thực hiện các thủ tục pháp lý và biết túm "kẻ có tóc".

Đơn cử, năm 2012, Chi cục Thi hành án huyện An Dương (Tp.Hải Phòng) đã cưỡng chế, bắt giữ hơn 20.600 tấn quặng sắt của Công ty Gang Vạn Lợi để trả nợ cho Công ty Tứ Đỉnh. Dù biết số quặng này là tài sản thế chấp của Ngân hàng BIDV chi nhánh Bắc Hà Nội, cơ quan Thi hành án vẫn bán đấu giá và cưỡng chế thu tài sản, trả hết số nợ 12,2 tỷ đồng cho DN.

Suốt quá trình kê biên, bán đấu giá tài sản, phía thi hành án vẫn gửi thông báo cho ngân hàng và đề nghị "có thể khởi kiện ra tòa để dừng việc thi hành án nếu thấy quyền lợi bị xâm phạm". Nhưng ngân hàng đã không làm vậy, để mặc cho chủ nợ khác nhanh tay "nẫng" mất tài sản bảo đảm.

Công ty Việt Hưng đã "âm thầm" thay đổi Người đại diện theo pháp luật, từ ông Nguyễn Minh Sơn, Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc, sang cho người khác, để kháng nghị quyết định của tòa án và yêu cầu dừng cưỡng chế tài sản.

Theo đại diện Vietinbank, trong quan hệ vay mượn, công ty Việt Hưng vẫn phải có nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng dù có thay đổi Người đại diện theo pháp luật. Vì các hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp… đã được xác lập tại thời điểm ông Sơn là người đại diện hợp pháp và tuân thủ đúng quy định.

Do đó, trách nhiệm trả nợ của DN là không thể chối bỏ. Hành vi gian dối của giám đốc cũ là nhằm gây khó khăn cho việc thi hành án, rũ trách nhiệm trả tổng số nợ nên ngân hàng có thể đề nghị xử lý hình sự.

Thực tế, đã có trường hợp Chủ tịch HĐQT mới của Công ty xi măng Hoàng Liên Sơn bị buộc phải trả nợ thay cho Giám đốc cũ. Năm 2012, Chi cục thi hành án Tp.Lào Cai đã gửi 2 thông báo đòi nợ DN này theo các bản án đã tuyên của tòa án với tổng số nợ hơn 650 triệu đồng. Phía DN cho rằng khi chuyển giao cổ phần sang chủ mới đã chốt xong công nợ, không có số nợ này nên không có trách nhiệm trả nợ.

Song cơ quan thi hành án khẳng định, giám đốc cũ là Người đại diện theo pháp luật và đã kí vào thỏa thuận trả nợ, được tòa án ra quyết định công nhận. Dù đổi chủ, công ty vẫn phải có trách nhiệm trả nợ và Chi cục thi hành án đã cưỡng chế, thu giữ các xe ôtô để bán trả nợ.

2. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Báo cáo Thủ tướng xem xét về thẩm quyền xử phạt báo chí. Bài báo phản ánh: Vừa qua, Hội Nhà báo Việt Nam đã có Công văn số 19/CV-HNBVN gửi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết: “Thời gian qua, các cơ quan báo chí liên tục phản ánh về thực trạng có quá nhiều văn bản quy phạm pháp luật về xử phạt báo chí. Việc cho phép nhiều cơ quan được quyền xử phạt báo chí với các chế tài chồng chéo, không thống nhất, thậm chí mâu thuẫn nhau, gây khó khăn cho việc thực hiện, giới báo chí băn khoăn”. 

Hội Nhà báo cũng liệt kê một loạt văn bản có những nội dung xử phạt không thống nhất đối với cơ quan báo chí để báo cáo Thủ tướng và khẳng định: hiện nay có nhiều nghị định quy định về xử lý vi phạm đối với hành vi thông tin không đúng của các tổ chức và cá nhân, nhất là các cơ quan báo chí như đã nói ở trên. 

Với các quy định nêu trên thì thực tế quy định của pháp luật có mâu thuẫn với nhau, gây khó khăn cho việc áp dụng. Một hành vi đưa tin sai về số liệu thống kê chẳng hạn, sẽ được áp dụng văn bản pháp luật nào để xử phạt? Nếu theo nguyên tắc có lợi cho tổ chức, cá nhân vi phạm để áp dụng Nghị định 02/2011/NĐ-CP với mức phạt thấp hơn thì lại vi phạm nguyên tắc ưu tiên áp dụng pháp luật chuyên ngành để xử phạt.

Theo Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 thì Chính phủ có thẩm quyền xác định các hành vi vi phạm hành chính, mức phạt và cơ quan có thẩm quyền xử phạt phù hợp với quy định của Luật. Do đó, các Nghị định của Chính phủ quy định về xử lý vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước mà có quy định xử phạt đối với hành vi thông tin không đúng (kể cả thông tin của các cơ quan báo chí) là đúng thẩm quyền và đúng pháp luật. Và theo nguyên tắc thì các cơ quan báo chí cũng như các tổ chức và cá nhân đều phải chấp hành quy định của pháp luật trong các lĩnh vực quản lý chuyên ngành. 

Trong khi đó, Khoản 1, 2 Điều 17 a Luật Báo chí quy định: “1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về báo chí; 2. Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Thông tin và Truyền thông) chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về báo chí”. Như vậy, có thể khẳng định Bộ Thông tin và Truyền thông là cơ quan duy nhất được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về báo chí, trong đó có việc xử lý vi phạm về hành vi thông tin sai sự thật trong hoạt động báo chí. Hơn nữa, hành vi thông tin sai sự thật trong hoạt động báo chí đã được quy định cụ thể tại Nghị định số 02/2011/NĐ-CP của Chính phủ. 

Vì vậy, việc hàng loạt  văn bản quy phạm pháp luật cho phép các cơ quan được xử phạt báo chí là không phù hợp với Luật Báo chí, Nghị định số 02/2011/NĐ-CP đã và đang có hiệu lực. 

Từ các phân tích trên, Hội Nhà báo Việt Nam “kính đề nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các cơ quan soạn thảo các văn bản rà soát lại để đảm bảo tính thống nhất trong quản lý nhà nước về lĩnh vực báo chí, thống nhất trong mức phạt đối với các hành vi vi phạm của báo chí, đồng thời có hướng dẫn thực hiện để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, sự phát triển của báo chí trong tương lai”.

3. Báo An ninh thủ đô có bài Ngay tại Hà Nội có một làng đàn ông lấy cả chục bà vợ. Bài báo phản ánh: Chuyện cứ tưởng như chỉ tồn tại vài thế kỷ trước hay những vùng sâu vùng xa lắm, nhưng ở ngay tại Vân Côn, một xã của huyện Hoài Đức, Hà Nội hầu như ai cũng coi là… bình thường. 

Thời các cụ đã đành, cứ phải đôi ba vợ, mà ai cũng là “vợ chính thức” cả. Còn như thế hệ các bác cỡ 50-60 tuổi thì sơ sơ vài làng quanh đây cũng trên dưới chục ông được vợ cả gánh lễ đi hỏi vợ hai cho, chưa kể ra ngoài làm ăn, công tác đặt “chi nhánh” khắp nơi, có ông cả chục bà. Cánh trẻ bây giờ thì không có chuyện cưới hỏi đàng hoàng như thế nữa vì pháp luật không cho phép, nhưng lập “phòng nhì, phòng ba” kiểu “không báo cáo chính quyền” thì không phải là hiếm.

Ở Vân Côn có một thời lấy vợ lẽ như một cái “mốt”, ông có vợ hai, vợ ba thì tôi cũng phải có. Còn những người phụ nữ thì quan niệm người ta lấy vợ cho chồng được thì mình cũng làm được, mà không lấy, chồng đi với bà khác, không danh chính ngôn thuận cũng chả cấm được. Thế nên mới có chuyện lạ là đàn ông khi lấy vợ bé đều phải được sự đồng ý của vợ cả và phải… cưới hỏi đàng hoàng.

Không chỉ những người phụ nữ chân lấm tay bùn mới chấp nhận đi hỏi vợ cho chồng, không ít người thậm chí làm cán bộ, cộng tác viên dân số cũng chấp nhận điều đó như một lẽ đương nhiên. Chị Phạm Thị N, giáo viên trường Mầm non Vân Côn là một ví dụ. Chị N lấy chồng sớm nhưng không may sau một lần sảy thai chị không đẻ được nữa. Hai vợ chồng yêu thương nhau, bàn nhau đi xin con nuôi nhưng tất cả 7 lần đều không thành. Cho đến một hôm, anh chồng về thủ thỉ bảo chị sắm lễ sang hỏi cô gái làng bên về làm lẽ, vì cô ấy “trót có bầu” rồi. Không có con, được họ hàng nhà chồng động viên, thuyết phục, cuối cùng chị cũng chấp nhận sắm cau trầu sang hỏi vợ cho chồng và tổ chức đám cưới long trọng cho hợp lẽ. Cưới xong, chị dựng thêm một ngôi nhà cho vợ lẽ của chồng. Rồi vợ lẽ sinh cho chồng chị 3 người con, 2 gái, 1 trai. Chị cũng xin được thêm một đứa con trai. Giờ chị ở với con nuôi và đứa con gái lớn, còn chị vợ hai thì ở với hai đứa nhỏ. Vậy mà đã mấy chục năm chung chồng như thế, nhưng chị N không một lời phàn nàn, chị nuôi nấng các con bà lẽ như con mình và chúng cũng coi chị như mẹ đẻ. 

Lấy nhiều vợ thì tất nhiên đẻ nhiều con, vì vậy mà ở Vân Côn chả thiếu gì những gia đình có 5-7, thậm chí là 10 con. Một cái khó nữa là ở Vân Côn, tư tưởng trọng nam khinh nữ khá rõ rệt, kiểu gì thì kiểu cũng phải có thằng con trai nối dõi mới được. Vậy nên những bà vợ nào đẻ 4-5 đứa con mà toàn con gái là y rằng một là kiếm bà khác cho chồng để đẻ con trai, hai là làm ngơ để chồng đi kiếm vợ bé. Điều lạ là dù vợ hai vợ ba thật đấy, nhưng các bà cả không hề ghét bỏ mà nhiều bà ở với bà hai và con cái bà hai cứ hòa thuận như chị em, mẹ con vậy. Ngược lại, ông nào không kiếm bà hai, bà ba thì vợ cũng phải đến khổ vì sự nghiệp… đẻ đái. Thế mới có chuyện có gia đình anh nọ mới 45 tuổi mà đã có tới… 7 người con, 6 gái, 1 trai. Cán bộ dân số đến tuyên truyền thì anh ta nói trắng phớ là kiểu gì cũng phải có đứa con trai. Cứ như vậy, năm nào Vân Côn cũng đứng đầu huyện, thành phố trong thành tích… sinh con thứ 3. 

Lang thang ở Vân Côn, tôi đi hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác chỉ xung quanh cái chuyện “phòng nhì”, phòng ba” của các ông chồng. Vân Côn giờ giàu có hơn thật, nhưng chả phải vì thế mà sinh ra cái thói trăng hoa ở đàn ông. Thực tế thì mấy năm trước Vân Côn cũng nghèo lắm, mới gần đây khi Đại lộ Thăng Long chạy qua, có tiền đền bù đất thì kinh tế mới khá lên nhiều. Khi hỏi nguyên nhân tại sao đàn ông Vân Côn thích lấy nhiều vợ tôi không nhận được câu trả lời nào thỏa đáng. Người thì bảo do phụ nữ ở Vân Côn không biết ghen, nếu phải ở địa phương khác thì có mà mấy mụ vợ chả nhảy dựng lên nhưng ở Vân Côn thì các bà, các chị coi đó là việc bình thường. Có người lại bảo vì đàn ông Vân Côn khéo mồm, “sát gái”, tư tưởng lại phóng khoáng nên “cưa” gái dễ như thay áo. Nhưng đó chỉ là quan niệm và lối sống theo lệ làng của người dân. Còn chuyện năm thê bảy thiếp thời nay rõ ràng là hành vi mà pháp luật không cho phép.

II- THÔNG TIN KHÁC

1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh đưa tin Việt Nam nằm trong số các quốc gia có tỉ lệ thất nghiệp thấp. Bài báo phản ánh: Kết luận trên do Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) công bố ngày 21-1. 

Theo đó, năm 2013 mặc dù tỉ lệ thất nghiệp tăng nhẹ từ 1,81% lên 1,9% so với năm 2012 nhưng Việt Nam vẫn nằm trong số các quốc gia có tỉ lệ thất nghiệp thấp nhất trên toàn cầu. ILO cho biết thêm năm 2013, các doanh nghiệp đã tuyển 862.000 lao động. Trong đó khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tăng 4,8% so với năm 2012. Phần lớn việc làm mới được tạo ra tập trung ở ngành dịch vụ, công nghiệp và xây dựng.

2. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Hệ lụy từ việc sinh con bằng mọi giá. Bài báo phản ánh: Nếu như hiến máu và hiến nội tạng nhằm cứu chữa người bệnh thì hiến tinh trùng và trứng là tạo cơ hội cho ra đời một con người. Một sinh linh chào đời với nguyên tắc bí mật thông tin về người cha, người mẹ sẽ có những hệ lụy về sau như hôn nhân cận huyết, tình cờ nhận ra cha con sẽ giải quyết thế nào?

Chi phí cho mỗi ca thụ tinh trong ống nghiệm (ICSI) hiện nay trung bình khoảng 60-80 triệu đồng. Dù tỷ lệ sinh con bằng kỹ thuật ICSI hiện nay thành công ở mức 30% nhưng với khát khao có “của để dành”, có người nối dõi tông đường, nhiều người đã bằng mọi cách để thực hiện giấc mơ, làm phát sinh những hệ lụy khi sinh con bằng phương pháp khoa học.

Khi luật pháp tạo một hành lang pháp lý cho những người phụ nữ đơn thân sinh con bằng phương pháp khoa học thì ngày càng có nhiều phụ nữ không có điều kiện lấy chồng hoặc không muốn lấy chồng nhưng muốn sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. 

Nếu như hiến máu và hiến nội tạng nhằm cứu chữa người bệnh thì hiến tinh trùng và trứng là tạo cơ hội cho ra đời một con người. Một sinh linh chào đời với nguyên tắc bí mật thông tin về người cha, người mẹ sẽ có những hệ lụy về sau như hôn nhân cận huyết, tình cờ nhận ra cha con sẽ giải quyết thế nào?

Luật Hiến, ghép mô, tạng cấm tuyệt đối việc mua bán trứng, tinh trùng bởi chúng không phải là hàng hóa. Luật thừa nhận việc hiến tặng, xin - cho và bên nhận sẽ thanh toán mọi chi phí cho bên hiến, thế nhưng việc khan hiếm tinh trùng khiến chúng rất đắt giá. 

Các bệnh viện có ngân hàng tinh trùng cũng thường xuyên trong tình trạng “thiếu vốn”. Việc lấy và bảo quản trứng khó hơn nên nguồn trứng càng hiếm. Bệnh viện thiếu, không thể cung cấp đủ trứng và tinh trùng cho danh sách bệnh nhân dài lê thê, do đó bệnh nhân muốn có con thì phải tự tìm người cho. Các bệnh viện thường lấy nguồn hiến tinh trùng là các sinh viên của các trường đại học. 

Người môi giới bán tinh trùng cũng quảng cáo tinh trùng của các sinh viên cao to, đẹp trai, thông thái. Việc hiến tinh trùng hay trứng được coi là việc làm nhân đạo, đem lại hạnh phúc cho nhiều cặp vợ chồng hiếm muộn đã biến thành việc mua bán trái luật. Người bán tinh trùng bán được càng nhiều càng tốt và chuyện gì sẽ xảy ra với những đứa trẻ? Đó là câu chuyện ở thì tương lai…



File đính kèm