Điểm tin báo chí các ngày 18, 19 tháng 01 và sáng ngày 20 tháng 01 năm 2014

20/01/2014
Trong các ngày 18, 19/01 và đầu giờ sáng ngày 20/01/2013, một số báo đã có bài phản ánh những thông liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài Tây Ninh: Không thể thi hành án vì vướng cây trồng?. Bài báo phản ánh: Tòa đã tuyên phần đất được giao trả cho nguyên đơn theo đúng pháp luật, cơ quan thi hành án dân sự (THADS) cũng đã vào cuộc, tuy nhiên sự việc vẫn kéo dài gần 2 năm chưa có kết quả. Cớ sự của việc chậm trễ này chỉ là vì trên phần đất ấy còn vướng một số cây ăn trái thuộc quyền sở hữu của bị đơn. Cơ quan chức năng họp bàn đủ cách nhưng cuối cùng đành phải... chờ!

Có mặt tại tòa soạn Báo CATP, chị Thái Minh Nguyệt (SN 1983) không giấu được bức xúc khi trình bày sự việc. Theo tường trình của chị, ngày 27-6-2011 Tòa án nhân dân (TAND) tỉnh Tây Ninh mở phiên xét xử phúc thẩm vụ “tranh chấp di sản thừa kế” giữa nguyên đơn là hai bà Đỗ Thị Điểm, Đỗ Thị Cúc (ủy quyền cho chị Nguyệt) và bị đơn là Võ Thị Hà (vợ ông Đỗ Kiểm - đã mất) cùng 10 người con về phần đất gần 8.000m2 tại ấp Ninh Trung, xã Ninh Sơn, thị xã Tây Ninh. Được biết số đất trên thuộc sở hữu của cha mẹ ông Kiểm, bà Điểm, bà Cúc. Sau khi qua đời họ không để lại di chúc, bà Hà cùng các con đã lập tờ tương phân với nội dung giao cho bà Điểm, bà Cúc mỗi người 200m2; phần còn lại thuộc về Đỗ Quang Vinh, Đỗ Quang Tường (con bà Hà). Thời điểm ấy do không am hiểu giấy tờ đất đai, hai bà Điểm, Cúc đã ký vào giấy này.

Năm 2006, ông Vinh, ông Tường được UBND thị xã Tây Ninh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng toàn bộ diện tích đất nói trên. Ba năm sau, bà Điểm, bà Cúc phát hiện họ kêu người chuyển nhượng nên xảy ra tranh chấp. Phiên sơ thẩm về vụ này đã được TAND thị xã Tây Ninh đưa ra xét xử ngày 27-1-2011. Tuy nhiên, sau đó phía bị đơn kháng cáo. Xem xét lại toàn bộ hồ sơ vụ án, tại phiên xử phúc thẩm, TAND tỉnh Tây Ninh đã tuyên: buộc bà Hà cùng 10 người con trả lại 2.697m2 đất cho bà Điểm, bà Cúc là phần di sản thừa kế do cha mẹ để lại, trong đó số cây ăn trái nằm trên phần đất này thuộc quyền sở hữu của bà Hà và 10 người con, do vậy phía bị đơn phải có nghĩa vụ di dời để giao đất cho hai bà Điểm, Cúc quản lý sử dụng theo quyết định của bản án.

Kể từ ngày tòa tuyên, phía bị đơn không tự nguyện thi hành án. Đại diện nguyên đơn là chị Nguyệt đã gửi đơn yêu cầu Chi cục THADS thị xã Tây Ninh can thiệp. Tuy nhiên, từ đó đến nay vụ việc vẫn chẳng có gì tiến triển. Chị Nguyệt đã làm đơn gởi cơ quan hữu trách thị xã Tây Ninh đề nghị có biện pháp xử lý. Ngày 8-12-2013, Chi cục THADS thị xã ra quyết định giải quyết khiếu nại của chị Nguyệt.

Theo đó, được biết gia đình bà Hà không tự nguyện giao trả đất cho phía nguyên đơn nên Chi cục THADS thị xã lập kế hoạch cưỡng chế. Chưa kịp thực hiện thì phía bà Hà có đơn khiếu nại cho rằng bản án phúc thẩm cho gia đình bà được quyền sở hữu toàn bộ cây ăn trái trên phần đất được giao trả cho hai bà Điểm, Cúc nên yêu cầu cơ quan chức năng phải làm rõ việc di dời số cây trên như thế nào và về đâu trước khi tổ chức giao đất cho hai người này. Chi cục THADS cũng đã có công văn gởi tòa án đề nghị giải thích về vấn đề trên và dù tòa đã trả lời về cách thức di dời nhưng vẫn chưa thỏa mãn nội dung yêu cầu. Lại thêm một văn bản được gởi đi, Chánh án TAND tỉnh yêu cầu tổ chức họp liên ngành ngày 2-7-2013 và đại diện TAND tỉnh, Viện KSND tỉnh, Cục Thi hành án tỉnh, Chi cục THADS thị xã đã thống nhất cho hai bên đương sự thỏa thuận giá trị cây ăn trái trên đất để bên được thi hành án bồi hoàn trước khi nhận đất. Thực sự đây cũng là mong muốn từ phía chị Nguyệt để mọi việc sớm được giải quyết. Nhưng vấn đề ở chỗ gia đình bà Hà không đồng ý phương án này.

Cuối cùng, ngày 6-9-2013 Chi cục THADS thị xã Tây Ninh gửi công văn lên TAND tối cao và Viện KSND tối cao, kiến nghị giám đốc thẩm bản án nêu trên.  Theo đó, khi nào có kết quả giải quyết cụ thể từ cơ quan cấp cao, Chi cục THADS thị xã sẽ tiếp tục giải quyết theo quy định.

Chị Nguyệt uất ức: “Rõ ràng gia đình bà Hà cố tình gây khó dễ và chưa có ý giao trả đất cho chúng tôi nên mới tìm đủ cách kéo dài. Trông chờ vào cơ quan chức năng tỉnh Tây Ninh thì chỉ nhận được sự lòng vòng, thiếu quyết đoán. Giờ đây chúng tôi còn phải dài cổ chờ kết quả cuối cùng từ TAND tối cao nữa?”.

Chẳng lẽ vì thiếu sót của hội đồng xét xử trong phiên phúc thẩm khi không đưa ra phương án di dời vườn cây ăn trái (chỉ lèo tèo vài cây...) trên phần đất được giao trả lại cho hai bà Điểm, Cúc mà giờ đây họ lại tiếp tục bị thiệt thòi? Cả hai từng bị phía bị đơn “qua mặt” và chịu thiệt suốt nhiều năm, lẽ nào cơ quan chức năng tỉnh Tây Ninh lại bó tay với một việc quá đơn giản như thế?

2. Báo Pháp luật Việt Nam Online có bài Bức xúc khi nữ giới bị cấm tham gia việc mổ tử thi. Bài báo phản ánh: Rất bức xúc về quy định không được sử dụng lao động nữ trong công việc mổ tử thi, đồng nghĩa với việc năng lực của nhiều giám định viên pháp y nữ sẽ không được trọng dụng, gây thiệt thòi cho hoạt động giám định tư pháp phục vụ tố tụng, TS Vũ Dương – Viện trưởng Viện Pháp y quốc gia trực thuộc Bộ Y tế đã nói thẳng như vậy. 

TS Vũ Dương cho biết ngay sau khi Thông tư 26 được ban hành, lãnh đạo Viện Pháp y quốc gia đã có ý kiến với lãnh đạo Bộ Y tế và Cục Quản lý khám chữa bệnh, thể hiện quan điểm cấm như thế không phù hợp với thực tế hoạt động giám định pháp y hiện nay, khi nhân lực vẫn còn rất thiếu mà các vụ trọng án lại ngày càng tăng cao về số lượng và mức độ nghiêm trọng, tinh vi của hành vi phạm tội. Viện Pháp y quốc gia cũng sẽ có công văn kiến nghị chính thức về vấn đề này gửi tới Bộ Y tế và Bộ LĐTBXH. 

“Chúng tôi cũng biết rằng, việc cấm sử dụng lao động nữ làm công việc mổ tử thi không phải là ý tưởng của ngành LĐTBXH, nó là sự kế thừa những quy định trước đó (mà cụ thể là Thông tư 40/2011/TTLT-BLĐTBXH-BYT) của cả hai ngành. Nhưng điều khiến chúng tôi rất bức xúc là khi xây dựng Thông tư, kể cả Thông tư  40 và Thông tư 26, tuy là đối tượng chịu sự điều chỉnh trực tiếp nhưng chúng tôi không hề được bất cứ ngành nào tham khảo, lấy ý kiến đóng góp”, TS Vũ Dương bức xúc. 

Theo ông Vũ Dương, trong hoạt động giám định pháp y, mổ tử thi là một chuyên môn chứ không đơn thuần là nghề hay công việc. Hoạt động giám định pháp y có rất nhiều chuyên môn riêng biệt như giám định thương tật, giám định hóa pháp (độc chất), giám định sinh học, giám định tài liệu…, trong đó bao gồm cả việc mổ xẻ tử thi. 

Truy tìm sự thật, phụng sự công lý đó là tôn chỉ mục đích mà hoạt động giám định pháp y hướng tới. Tuy nhiên, vì những đặc thù của công việc và sự chưa thấu hiểu hết của xã hội nên đội ngũ giám định viên pháp y luôn đứng trước nguy cơ thiếu hụt nhân lực, đặc biệt là những người giỏi. 

“Cả nước hiện có 6 giám định viên nữ và toàn là những người giỏi, yêu công việc, với quy định cấm như vậy, thật sự là một tổn thất lớn cho chúng tôi nói riêng cũng như ảnh hưởng đến hoạt động tố tụng nói chung”, ông Vũ Dương cho biết. 

Cũng theo TS Vũ Dương, trên thế giới chưa hề có quy định cấm phụ nữ mổ tử thi trong giám định pháp y. Và cũng có rất nhiều giám định viên pháp y giỏi là nữ trên thế giới, như Viện trưởng Viện Pháp y quốc gia Thái Lan là một ví dụ. “Chuyên môn để phụng sự công lý bị cấm, tréo ngoe đã đành, còn nghề nghiệp rồi sự mưu sinh của những người như vậy ai tính đến, khi hầu hết họ đã có cả cuộc đời cống hiến và quá muộn để làm lại từ đầu?”- ông Vũ Dương đặt câu hỏi. 

Ông Bùi Đức Những – Phó Cục trưởng Cục An toàn lao động - cho biết: công việc mổ tử thi đã được đề cập đến từ Thông tư Liên Bộ LĐTBXH và Y tế số 09 năm 1986 và qua nhiều lần lấy ý kiến để  sửa đổi, Bộ Y tế vẫn đề nghị giữ lại quy định này vì theo điều tra của ngành y tế, hiện tại không có nữ lao động làm công việc mổ tử thi cũng như không có bất cứ kiến nghị, thắc mắc gì. 

Ông Nhưỡng khẳng định: “Cần phân biệt rõ giữa nghề và công việc, nếu một người phụ nữ chỉ duy nhất làm một nghề là mổ tử thi thì đương nhiên là không được, nhưng nếu đó chỉ là một phần công việc của họ để phục vụ việc học tập, nghiên cứu và công tác thì không cấm”.

“Trong quá trình xây dựng văn bản, chúng tôi rất hoan nghênh việc tham khảo từ các Bộ, ngành nhưng riêng về vấn đề này không thấy có ý kiến gì. Mặt khác đây cũng là quy định kế thừa văn bản trước đó như đã nói ở trên. Tuy văn bản đã ban hành nhưng chúng tôi vẫn rất mong nhận được sự phản hồi chính thức để xem xét, cân nhắc. Mong rằng chúng tôi sẽ sớm nhận được ý kiến của các bên liên quan đến hoạt động giám định pháp y về vấn đề này” - Phó Cục trưởng Bùi Đức Nhưỡng nhấn mạnh. 

3. Báo Người Lao động có bài Trầy trật đòi nợ BHXH. Bài báo phản ánh: Nhiều bản án có hiệu lực thi hành đã lâu nhưng DN không chịu thực hiện dù vẫn còn hoạt động. Số khác thì chưa kịp thi hành án đã biến mất.

Thời gian qua, Báo Người Lao Động nhận được rất nhiều đơn thư của người lao động (NLĐ) khiếu nại về việc doanh nghiệp (DN) nợ BHXH, BHYT và bảo hiểm thất nghiệp (BHTN). Nhiều trường hợp nghỉ việc đã lâu nhưng chưa nhận được quyết định thôi việc, chưa được chốt sổ BHXH và hưởng chế độ thất nghiệp. Theo BHXH TP HCM, năm 2013 tổng số tiền nợ của các DN là 1.104,4 tỉ đồng.

Khi chúng tôi liên hệ với các đơn vị thì đều nhận được câu trả lời do sản xuất kinh doanh khó khăn, nợ BHXH nên chưa thể chốt sổ cho NLĐ. Đơn cử như trường hợp tại Công ty TNHH Văn phòng phẩm Bút bi Bến Nghé. Do công ty nợ BHXH nên khi nghỉ thai sản một số nữ nhân viên không được hưởng trợ cấp thai sản. Nhận được đơn khiếu nại của NLĐ, trưởng phòng nhân sự của công ty đề nghị NLĐ khởi kiện ra tòa đòi sổ BHXH. Vị này nói rằng chỉ có thông qua con đường đó, công ty mới có thể xin cơ quan BHXH truy nộp riêng cho NLĐ, sau đó mới chốt sổ được.

Gần đây nhất, một số NLĐ từng làm việc tại Công ty TNHH Nước khoáng Mai Linh đã gửi đơn đến Báo Người Lao Động phản ánh họ nghỉ việc gần 1 năm nay nhưng chưa nhận được tiền trợ cấp thôi việc, sổ BHXH và BHTN. Chúng tôi nhiều lần tìm cách liên hệ với giám đốc công ty nhưng không được. Qua tìm hiểu tại BHXH TP, được biết Tập đoàn Mai Linh đang dẫn đầu danh sách các DN nợ BHXH, đã có phán quyết của tòa, vẫn còn hoạt động nhưng DN này không thi hành án với số tiền nợ hơn 80 tỉ đồng.

Bà Nguyễn Thị Hồng Bạch - Trưởng Phòng LĐ-TB-XH quận Bình Tân, TP HCM - cho biết: Các cuộc tranh chấp lao động cá nhân trên địa bàn quận chủ yếu liên quan đến nợ BHXH. Nhiều DN gặp khó khăn không có khả năng thanh toán khiến NLĐ thiệt thòi. Có trường hợp NLĐ sinh con được gần 1 tuổi nhưng vẫn chưa được nhận tiền thai sản. Hiện toàn quận có 831 DN nợ BHXH với số tiền 52,2 tỉ đồng.

Để giảm tỉ lệ nợ đọng và tạo điều kiện cho các DN thực sự gặp khó khăn khắc phục từng bước tiền nợ, giải quyết chế độ cho NLĐ nghỉ việc, năm 2013, BHXH TP  HCM đã giải quyết cho DN đóng trước tiền nợ BHXH, BHYT, BHTN và lãi chậm đóng của NLĐ nghỉ việc để chốt sổ, đồng thời thanh toán tiền nợ quỹ BHYT (4,5%) và quỹ BHXH ngắn hạn (4%) để gia hạn thẻ BHYT và bảo đảm quyền lợi của những lao động đang làm việc. Thế nhưng, tình hình nợ cũng không cải thiện là bao.

Bà Nguyễn Thị Hồng Hạnh, Trưởng Phòng Thu BHXH TP, cho biết công tác thu hồi nợ BHXH rất khó khăn. Nhiều DN cố tình trốn tránh, không tiếp, không ký giấy xác nhận công nợ. Bên cạnh đó, khi thi hành án, nguyên đơn là BHXH phải chứng minh tài sản của DN nhưng cơ quan BHXH không nắm được hoặc không có căn cứ để xác định. “Nếu có, chỉ nắm được số tài khoản đang giao dịch và địa chỉ trụ sở theo đăng ký. Nhưng thực tế DN có thể có rất nhiều tài khoản, địa chỉ trụ sở chỉ đi thuê… nên có trường hợp chưa kịp thi hành án thì DN đã biến mất” - bà Hồng Hạnh chia sẻ.

Theo ông Đỗ Quang Khánh, Phó Giám đốc BHXH TP, cái gốc của vấn đề nợ BHXH là pháp luật chưa đủ sức răn đe và việc xử phạt chưa kịp thời. Ông Khánh cho rằng Chính phủ nên giao thêm chức năng thanh tra, xử phạt đối với những trường hợp vi phạm nhẹ hoặc mới vi phạm cho cơ quan BHXH để xử lý kịp thời. Những trường hợp vi phạm nặng hoặc tái phạm ảnh hưởng đến số đông NLĐ, cơ quan BHXH sẽ lập biên bản chuyển cho cơ quan thanh tra lao động xử lý nhằm rút ngắn thời gian giải quyết, ngăn ngừa nợ phát sinh từ nhỏ thành lớn, dẫn đến dây dưa, kéo dài, nợ đọng... 

4. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Kiến nghị đổi chức danh trợ giúp viên pháp lý thành luật sư công. Bài báo phản ánh: Sáng 17-1, Bộ Tư pháp tổ chức hội nghị trực tuyến Sơ kết hai năm triển khai thực hiện chiến lược phát triển trợ giúp pháp lý (TGPL) ở Việt Nam.

Tại đầu cầu TP.HCM, Giám đốc Sở Tư pháp TP.HCM Ung Thị Xuân Hương kiến nghị cần sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật về TGPL, nhất là về chế độ, chính sách đối với đội ngũ TGPL, cơ chế tài chính khuyến khích, thu hút các nguồn lực tham gia TGPL… Bà Hương cũng kiến nghị chuyển đổi chức danh trợ giúp viên pháp lý thành chức danh luật sư (luật sư hưởng lương của Nhà nước).

Theo báo cáo của Bộ Tư pháp, hai năm qua, các tổ chức TGPL đã thực hiện trên 230.000 vụ việc, trợ giúp cho trên 240 người (chủ yếu là người nghèo và người dân tộc thiểu số). Tuy nhiên, báo cáo này cũng thừa nhận có nhiều chỉ tiêu trong chiến lược chưa phù hợp. Chẳng hạn, chiến lược yêu cầu thành lập chi nhánh của trung tâm TGPL tại các huyện xa trung tâm, trên 25 km đối với địa bàn đồng bằng đông dân cư và trên 35 km đối với địa bàn vùng trung du, miền núi khiến nhiều nơi thành lập chi nhánh không căn cứ vào nhu cầu của người dân và điều kiện của địa phương… Phát biểu tại hội nghị, tuy đánh giá cao những việc đã làm được trong công tác TGPL nhưng Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu cho rằng TGPL thời gian qua vẫn nặng về tuyên truyền, vụ việc làm được còn ít, đặc biệt là các vụ việc tham gia tố tụng (tham gia tố tụng mới đạt trên 13.000 việc, chiếm 5,8% - PV).

II- THÔNG TIN KHÁC

1. Báo Điện tử Chính phủ đưa tin về Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nổi bật tuần 10-17/1/2014:

- Đôn đốc thực hiện nhiệm vụ chuẩn bị đón Tết

Thủ tướng Chính phủ có Công điện yêu cầu các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đôn đốc thực hiện nhiệm vụ chuẩn bị đón Tết Nguyên đán Giáp Ngọ 2014.

- Đẩy mạnh thực hiện các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ về y tế

Chính phủ đã ban hành Nghị quyết về việc đẩy mạnh thực hiện các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc trong lĩnh vực y tế. Trong đó, Chính phủ yêu cầu các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nâng cao nhận thức, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, chính quyền các cấp về thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ trong lĩnh vực y tế.

Bên cạnh đó, lồng ghép các chỉ tiêu về thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ về y tế vào kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của các địa phương, nhất là đối với các tỉnh miền núi, vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số có các chỉ tiêu Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ về y tế thấp hơn so với bình quân chung của cả nước. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ về y tế…

- Giúp học sinh trường giáo dưỡng tái hòa nhập cộng đồng

Theo Nghị định quy định chế độ áp dụng, thi hành biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng và cơ sở giáo dục bắt buộc của Chính phủ, 2 tháng trước khi học sinh, trại viên chấp hành xong quyết định, Hiệu trưởng trường giáo dưỡng, Giám đốc cơ sở giáo dục bắt buộc thông báo cho Công an cấp huyện, UBND cấp xã nơi họ về cư trú để chủ động theo dõi, giáo dục, giúp đỡ họ tái hòa nhập cộng đồng; tổ chức phổ biến chính sách, pháp luật, thông tin về tình hình kinh tế-xã hội, thị trường lao động, tư vấn, giáo dục kỹ năng sống, trợ giúp về tâm lý, hỗ trợ các thủ tục pháp lý nhằm trang bị kiến thức cần thiết, nâng cao khả năng tự giải quyết những khó khăn, vướng mắc của học sinh, trại viên.

- Phê duyệt Chiến lược quốc gia phát triển ngành Dược

Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược quốc gia phát triển ngành Dược Việt Nam giai đoạn đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 với mục tiêu đến năm 2020, 100% thuốc được cung ứng kịp thời cho nhu cầu phòng bệnh, chữa bệnh; phấn đấu sản xuất được 20% nhu cầu nguyên liệu cho sản xuất thuốc trong nước, thuốc sản xuất trong nước chiếm 80% tổng giá trị thuốc tiêu thụ trong năm, trong đó thuốc từ dược liệu chiếm 30%; vắc xin sản xuất trong nước đáp ứng 100% nhu cầu cho tiêm chủng mở rộng và 30% nhu cầu cho tiêm chủng dịch vụ.

Bên cạnh việc nâng cao tỷ trọng thuốc nội thì Chiến lược còn đặt ra mục tiêu là 100% cơ sở kinh doanh thuốc thuộc hệ thống phân phối thuốc đạt tiêu chuẩn thực hành tốt, 50% cơ sở kiểm nghiệm và 100% cơ sở kiểm định vắc xin và sinh phẩm y tế đạt tiêu chuẩn thực hành tốt (GPs)…

- Khuyến khích hoạt động xúc tiến đầu tư liên ngành, liên vùng

Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế quản lý Nhà nước đối với hoạt động xúc tiến đầu tư. Theo đó, khuyến khích các hoạt động xúc tiến đầu tư mang tính liên ngành, liên vùng; hạn chế thực hiện các hoạt động xúc tiến đầu tư đơn lẻ nhằm tránh chồng chéo, trùng lặp, lãng phí nguồn lực.

- Tiếp tục củng cố, kiện toàn chính quyền cơ sở vùng Tây Nguyên

Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Tiếp tục củng cố, kiện toàn chính quyền cơ sở vùng Tây Nguyên giai đoạn 2014 - 2020”. Mục tiêu của Đề án là tiếp tục củng cố, kiện toàn chính quyền cơ sở vùng Tây Nguyên, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và năng lực quản lý, điều hành; phát huy dân chủ và quyền chủ động của cơ sở nhằm tăng cường và thắt chặt mối quan hệ gắn bó giữa chính quyền cơ sở với nhân dân, góp phần xây dựng Tây Nguyên vững mạnh toàn diện.

- Không thành lập mới cơ sở in trong khu dân cư

Theo Quy hoạch phát triển xuất bản, in, phát hành xuất bản phẩm đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, không thành lập mới cơ sở in trong khu dân cư và thực hiện di dời các cơ sở in ra ngoài khu dân cư; có kế hoạch từng bước đưa các cơ sở in vào khu công nghiệp.

Chỉ xem xét thành lập mới nhà xuất bản đối với ngành, lĩnh vực và tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chưa có nhà xuất bản; hoàn thành việc rà soát, sắp xếp lại các nhà xuất bản vào năm 2015.

Bên cạnh đó, mở rộng phạm vi hoạt động của các nhà xuất bản, cơ sở in, cơ sở phát hành xuất bản phẩm ở trong nước và nước ngoài dưới nhiều hình thức.

- Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực an toàn, an ninh thông tin

Mục tiêu của Đề án đào tạo và phát triển nguồn nhân lực an toàn, an ninh thông tin đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt là đến năm 2020, đưa được 300 giảng viên, nghiên cứu viên đi đào tạo về an toàn, an ninh thông tin (ATANTT) ở nước ngoài, trong đó có 100 tiến sĩ; đào tạo được 2.000 học viên có trình độ đại học và trên đại học về ATANTT chất lượng cao.

Bên cạnh đó, đưa được 1.500 lượt cán bộ chuyên trách về ATANTT đi đào tạo ngắn hạn cập nhật công nghệ, nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ tại các cơ sở đào tạo có uy tín ở nước ngoài; tập huấn, đào tạo ngắn hạn nâng cao kiến thức, kỹ năng về ATANTT cho 10.000 lượt cán bộ làm về ATANTT và công nghệ thông tin (CNTT) tại các cơ quan Nhà nước.

- Hỗ trợ gạo cứu đói dịp Tết cho 9 tỉnh

Thủ tướng Chính phủ vừa giao Bộ Tài chính xuất cấp (không thu tiền) 12.322 tấn gạo từ nguồn dự trữ quốc gia để hỗ trợ cứu đói cho 9 địa phương dịp Tết nguyên đán và giáp hạt năm 2014.

9 tỉnh được hỗ trợ gồm: Lai Châu 730 tấn; Lào Cai 214 tấn; Cao Bằng 446 tấn; Yên Bái 360 tấn; Nghệ An 4.195 tấn; Quảng Bình 3.390 tấn; Quảng Trị 1.458 tấn; Phú Yên 676 tấn; Ninh Thuận 853 tấn gạo.

- Cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm, ngăn chặn ngay tình trạng buôn lậu

Tại Thông báo 14/TB-VPCP, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc - Trưởng Ban Chỉ đạo 138/CP yêu cầu Ban Chỉ đạo Phòng chống tội phạm của Chính phủ (Ban Chỉ đạo 138/CP), Ban Chỉ đạo 138 các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo, tổ chức thực hiện quyết liệt các đợt cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm, trước mắt là thực hiện tốt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm bảo vệ an ninh, trật tự Tết Nguyên đán Giáp Ngọ 2014.

- Đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa Vinalines

Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải yêu cầu Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines) tập trung xử lý tài chính, đẩy nhanh tiến độ thực hiện cổ phần hóa và sắp xếp lại các doanh nghiệp theo Đề án tái cơ cấu Vinalines.

Phó Thủ tướng cũng yêu cầu Vinalines tiến hành cơ cấu lại đội tàu, cơ cấu đầu tư hợp lý, đảm bảo phù hợp với năng lực tài chính và nhu cầu của thị trường vận tải biển. Đồng thời tăng cường công tác quản trị, quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh; tích cực chủ động tính toán, có phương án bán tàu để cắt giảm lỗ đối với những tàu không còn nhu cầu khai thác, sử dụng.

2. Báo Đời sống và Pháp luật có bài Những “con sâu” trong ngành tư pháp khiến công lý nghiêng ngả. Bài báo phản ánh: Mới đây, Chánh án TAND huyện Nam Đàn, Nghệ An bị bắt giữ khi đang nhận tiền “chạy án” càng tạo nên những bất bình trong dư luận.

Liên tiếp những vi phạm pháp luật trong công tác truy tố, xét xử và thi hành án khiến dư luận không khỏi quan ngại về đạo đức của một bộ phận không nhỏ cán bộ ngành tư pháp. Vấn đề này được các ĐBQH đưa ra mổ xẻ, phân tích, lãnh đạo cơ quan tư pháp “hứa rút kinh nghiệm” nhưng dường như chỉ giải quyết được bề nổi. Khi cán cân công lý cũng bị lệch, bị mua chuộc thì sẽ còn nhiều vụ án “con gấu được tuyên là con thỏ”.

Trong ngành nghề nào cũng phát sinh những tiêu cực mà người ta phải che giấu, mua chuộc nên gọi chung là “chạy án”. Thế nhưng ở ngành tư pháp, việc “chạy án” đúng theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Việc này dẫn đến bỏ lọt tội phạm hoặc giảm nhẹ hình phạt với người phạm tội. Khi những người cầm cán cân công lý mà không có cái tâm, bị tha hóa biến chất thì hệ lụy thật khôn lường!.

Như Đời sống và Pháp luật đã thông tin, liên quan đến vụ việc ông Phan Văn Quang, Chánh án TAND huyện Nam Đàn (tỉnh Nghệ An) bị bắt giữ khi đang nhận tiền “chạy án”. Với lời hứa sẽ xử một mức án nhẹ cho bị can bị truy tố về tội đánh bạc, ông Quang đã nhận của bị can này (đang được tại ngoại trong quá trình điều tra) 20 triệu đồng (ngày 25/11/2013). Theo người dân địa phương, mặc dù mới giữ cương vị Chánh án TAND huyện Nam Đàn mới 5 năm nhưng ông Quang đã có ô tô riêng và sống cùng gia đình tại thị trấn Nghĩa Đàn.

Trước đó, cũng tại Nghệ An, một thẩm phán của TAND huyện Yên Thành bị bắt giữ trong một vụ cầm đầu đường dây “chạy án”. Theo đó, ông Bùi Anh Đức là Thẩm phán TAND huyện Yên Thành, được giao nhiệm vụ chủ tọa xét xử vụ án hình sự “tham ô tài sản” vào ngày 25/4/2012. Điều đáng nói là bản thân ông Đức đã “gợi ý” gia đình bị cáo chi từ 40 triệu đến 60 triệu đồng để lo việc giảm án. Sau khi sự việc bị tố cáo, Đức cũng đã khai nhận toàn bộ sự việc phạm tội của mình.

Gần đây nhất, tháng 9/2013, một thư ký tòa án cũng bị bắt khẩn cấp khi nhận tiền “chạy án”. Đối tượng là Nguyễn Duy Hải (47 tuổi). Khi phạm tội, Hải là thư ký TAND quận Đống Đa, TP.Hà Nội. Trước đó, trong một phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án “trộm cắp tài sản”, sau khi phiên tòa kết thúc, Hải đã chủ động làm quen với thân nhân bị cáo và đề nghị nếu muốn “chạy án” phúc thẩm (theo hướng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo) thì đưa cho Hải 55 triệu đồng.

Vấn nạn “chạy án” không chỉ xuất hiện trong các cơ quan tiến hành tố tụng mà một số luật sư cũng là người cầm đầu các đường dây “chạy án” cho thân chủ. Theo nguồn tin từ cơ quan điều tra (bộ Công an), đầu năm 2013, cơ quan này đã bắt Lương Anh Tiến, luật sư bào chữa của bị can Nguyễn Minh Tuấn (nguyên Giám đốc Công ty CP Du lịch Lộc Bình Phú, bị truy tố và xét xử về 2 tội danh lừa đảo chiếm đoạt tài sản, làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức-PV). Được biết, trong quá trình tiến hành các thủ tục bào chữa, ngoài chi phí theo thỏa thuận là 100 triệu đồng, Tiến chủ động gặp gia đình Tuấn hứa hẹn sẽ tác động với cơ quan tiến hành tố tụng bỏ tội danh lừa đảo chiếm đoạt tài sản để Tuấn chỉ nhận mức án thấp nhất. Đổi lại, gia đình Tuấn phải chi 3 tỷ đồng. Thời điểm bị bắt, Tiến đã nhận của gia đình Tuấn 810 triệu đồng.

Một vụ việc khác xảy ra tại TP.HCM. Cơ quan điều tra đã bắt ông Võ Trọng Hiếu, nguyên là thẩm phán Tòa Dân sự TAND TP.HCM. Trong thời gian được phân công giải quyết một hồ sơ vụ án tranh chấp quyền sở hữu nhà, ông Hiếu đã nhận hối lộ 3 lượng vàng và 1 triệu đồng của một bên để hứa hẹn sẽ giải quyết vụ án theo hướng có lợi cho phía gia đình này...

Trước thực trạng trên, nhiều người tỏ ra bức xúc vì niềm tin của người dân vào pháp luật, lẽ công bằng xã hội vốn đang bị tổn thương. Phân tích nguyên nhân trên, nhiều chuyên gia pháp lý cho rằng, đây là sự yếu kém về công tác phòng ngừa vi phạm pháp luật, công tác truy tố, xét xử và thi hành án. Bên cạnh đó là bệnh quan liêu, thành tích vẫn còn nặng nề nên không ít người đứng đầu vẫn còn bao che, dung túng cho hành vi tham nhũng của cán bộ do mình quản lý. Vẫn còn có biểu hiện xử lý không nghiêm minh, nương nhẹ và có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm như lợi dụng kẽ hở của pháp luật để xử lý hành vi vi phạm pháp luật bằng biện pháp kỷ luật, hành chính.

Trao đổi với PV báo Đời sống và Pháp luật về vấn đề này, luật sư Nguyễn Hoàng Tiến - Trưởng Văn phòng Luật sư Đức Thịnh (đoàn Luật sư Hà Nội) cho biết: Tâm lý của tội phạm thì luôn muốn trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật, hoặc được giảm nhẹ nên luôn tìm cách “chạy án”. Tuy nhiên, nếu như các cán bộ ngành tư pháp cũng tiếp tay cho việc này thì không thể chấp nhận được. Phẩm giá cao quý của người “cầm cân” đã bị lợi dụng để mưu cầu lợi ích vật chất không chính đáng cho riêng mình, vi phạm pháp luật, kỷ luật của ngành tòa án.

“Chỉ vì tiền mà cả người “cầm cân” cho sự công bằng của xã hội cũng bị mua chuộc thì rất đáng lên án. Đây là điều lý giải cho việc tại sao còn tồn tại nhiều vụ án oan sai, nhiều vụ đặc biệt nghiêm trọng như vụ án Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang gần đây. Bản thân tôi cũng như người dân không chấp nhận được việc đòi hỏi về tiền bạc trái pháp luật của những người có thẩm quyền giải quyết vụ án”, luật sư Tiến nói.

Một vị luật sư khác (đề nghị giấu tên) thẳng thắn nói: “Chính việc “chạy án” sẽ dẫn đến bỏ lọt tội phạm hoặc tìm cách vận dụng pháp luật nhằm giảm nhẹ hình phạt. Những ai thường tham gia tố tụng mới hiểu hết chuyện chạy án. Người có kinh nghiệm có thể “ngửi” được mùi “chạy án” thông qua thái độ của thẩm phán chủ tọa và thư ký trong quá trình tòa chuẩn bị xét xử”.

Theo vị luật sư này, có 2 dạng “chạy án”, dạng thứ nhất là đơn thuần bỏ tiền ra để “chạy án”, còn dạng thứ hai là vừa bỏ tiền vừa kết hợp với chuyện “gửi gắm” từ những vị có vai vế cao hơn cấp tòa đang thụ lý vụ việc. Đối với dạng thứ nhất, nếu có phương pháp bảo vệ quyền lợi tốt thì vẫn còn hy vọng không bị xử oan, nhưng đối với dạng thứ hai thì dù có chứng cứ mạnh như thế nào cũng phải “thúc thủ”. Tòa có thể bỏ hết chứng cứ có lợi ra ngoài, chỉ đưa vào những chứng cứ bất lợi, còn bên được “gửi gắm” thì ngược lại.

Ngay cả khi có luật sư làm người đại diện hay bào chữa, nếu có sự “gửi gắm” từ cấp có quyền lực rằng bằng mọi cách phải “xử thắng” cho bên kia, thì luật sư tha hồ trình bày, tha hồ tranh luận, hội đồng xét xử không ngăn cản, sẵn sàng bỏ nhiều giờ ngồi nghe, phía bên kia cũng chả phải tranh luận nhiều, cuối cùng tòa vẫn tuyên theo ý của người “gửi gắm”?!



File đính kèm