I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Lao động có bài Về bài báo “Cục thi hành án Lâm Đồng: Cố tình gây thất thoát tài sản nhà nước”. Bài báo phản ánh: Ngày 30.10.2013, Báo Lao Động đã nhận được công văn số 170/CV-CTHA của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Lâm Đồng đề nghị cải chính thông tin sai sự thật được nêu trong bài báo “Cục Thi hành án Lâm Đồng: Cố tình gây thất thoát tài sản nhà nước” đăng trên báo Lao Động số ra ngày 29.8.2013 và được đăng tải trên báo Lao Động điện tử cùng ngày.
Nội dung công văn cho rằng, Báo Lao Động đăng nội dung thông tin sự việc vội vàng, thiếu kiểm tra, chỉ dựa trên những thông tin được cung cấp không đúng sự thật khách quan. Sự thật có đúng như thế?
Trong công văn số 170/CV-CTHA, Cục Thi hành án (THA) tỉnh Lâm Đồng cho rằng, bài báo phản ánh không đúng sự thật vì: Việc xử lý kê biên tài sản tại 124 Kha Vạn Cân của Tổng Cty Dâu tằm tơ (TCty DTT) VN đã được Trưởng THA dân sự tỉnh Lâm Đồng trả lời khiếu nại tại quyết định số 01/THA ngày 2.1.2009 và được Cục THA dân sự - Bộ Tư pháp (nay là Tổng cục THA dân sự) ra quyết định giải quyết khiếu nại lần 2 số 1679/QĐGQKN-THA ngày 28.8.2009 có nội dung “không chấp nhận đơn khiếu nại của TCty DTT khiếu nại quyết định giải quyết khiếu nại số 01/THA ngày 2.1.2009 của THA dân sự tỉnh Lâm đồng với nội dung yêu cầu định giá lại tài sản tại 124 Kha Vạn Cân do có công văn 5429/UBND-ĐTMT ngày 28.8.2008 của UBND TPHCM”.
Về những vấn đề Cục THA nêu trong công văn, qua xem xét hồ sơ, tài liệu thu thập được, chúng tôi xin trả lời rõ như sau:
Sau khi Trưởng THA dân sự tỉnh Lâm Đồng trả lời khiếu nại TCty DTT tại Quyết định số 01/THA ngày 2.1.2009, thì ngày 5.1.2009 Bộ NN&PTNT đã gửi công văn 18/BNN-PC tới Bộ Tư pháp và Bộ Công an, nêu rõ: Việc định giá quyền sử dụng 1.222,6m2 đất sai quy định pháp luật, vi phạm điều 43 Pháp lệnh THA dân sự năm 2004 và Điều 23 Nghị định 173/2004/NĐ-CP ngày 30.9.2004 của Chính phủ về Quy định thủ tục, cưỡng chế, xử phạt vi phạm hành chính trong THA dân sự; có biểu hiện hạn chế khách hàng tham gia đấu giá, vi phạm quy định niêm yết, thông báo công khai việc đấu giá tài sản quy định tại điều 12 Nghị định 105/205/NĐ-CP ngày 18.5.2005 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản; có dấu hiệu thông thầu.
Tiếp theo đó, ngày 15.6.2009, Sở Tư pháp tỉnh Lâm Đồng (Cơ quan quản lý Cục THA án dân sự tỉnh Lâm Đồng tại địa phương) cũng có báo cáo số 88/BC-STP gửi UBND tỉnh Lâm Đồng báo cáo sự việc nêu trên, và ghi rõ: “Do nhận thức chưa đầy đủ nội dung của công văn 5429/UBND ngày 28.8.2008 của UBND TPHCM về điều chỉnh khung giá đất tại khu vành đai Tân Sơn Nhất, nên THA không chấp nhận việc xin xem xét lại giá đã định tại 124 Kha Vạn Cân là việc làm thiếu khách quan, sai hoàn toàn, những ý kiến mà TCty đề nghị là có cơ sở để xem xét.
Vì thực tế việc biến động giá đất là có thực, việc định giá, bán đấu giá tài sản ở 124 Kha Vạn Cân còn nhiều bất cập không sát với thực tế nên việc cần chấp nhận ý kiến xin xem xét lại của TCty DTT là hoàn toàn thỏa đáng và có căn cứ”. Căn cứ báo cáo này, Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng đã có công văn 4199/UBND ngày 18.6.2009 gửi Bộ trưởng Bộ Tư pháp đề nghị tiến hành thanh tra, xử lý vi phạm trong công tác THA đối với Cơ quan THA dân sự tỉnh Lâm Đồng.
Về lý do Cục THA dân sự tỉnh Lâm Đồng cho rằng: Cục THA dân sự - Bộ Tư pháp (nay là Tổng cục THA dân sự) đã ra Quyết định giải quyết khiếu nại lần 2 số 1679/QĐGQKN-THA ngày 28.8.2009 có nội dung “không chấp nhận đơn khiếu nại của TCty DTT khiếu nại quyết định giải quyết khiếu nại số 01/THA ngày 2.1.2009 của Thi hành án dân sự tỉnh Lâm Đồng với nội dung yêu cầu định giá lại tài sản tại 124 Kha Vạn Cân do có công văn 5429/UBND-ĐTMT ngày 28.8.2008 của UBND TP HCM”.
Tuy nhiên, ngày 28.6.2011, Bộ Tư pháp vẫn ban hành Kết luận Thanh tra số 3762/KL-BTP của về việc thanh tra thi hành các bản án đối với TCty DTT VN của Cục THA dân sự tỉnh Lâm Đồng, trong đó có kết luận về việc thực hiện các thủ tục kê biên nhà đất tại 124 Kha Vạn Cân và xác định: “...chấp hành viên xác minh chưa thật sự đầy đủ theo quy định tại Nghị định 164/2004/NĐ-CP ngày 19.4.2004 của Chính phủ về kê biên, đấu giá quyền sử dụng đất để bảo đảm THA. Do đó cần rút kinh nghiệm”(?).
Tuy nhiên, kết luận thanh tra nêu trên không nhắc việc THA đã áp giá thấp khi định giá tài sản để đấu giá, dẫn đến thất thoát tài sản của DN nhà nước – là mấu chốt dẫn đến khiếu kiện của TCty DTT VN với Cục THA dân sự tỉnh Lâm Đồng. Chính vì lý do nêu trên, ngày 4.8.2011, Bộ NN&PTNT đã có công văn số 3987/BNN-TTr gửi Bộ Tư pháp đề nghị xem xét những khiếu nại, kiến nghị của TCty DTT VN về việc bị bán đấu giá tài sản giá rẻ.
Với những thông tin nêu trên, Báo Lao Động khẳng định các thông tin nêu trong bài báo “Cục Thi hành án Lâm Đồng: Cố tình gây thất thoát tài sản nhà nước” là có căn cứ.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Chậm giải quyết khiếu nại, người dân bị thiệt. Bài báo phản ánh: Cơ quan thi hành án chậm giải quyết khiếu nại khiến người dân phải mòn mỏi chờ giao nhà, bị thiệt hại đủ bề.
“Ba năm nay tôi chạy ngược chạy xuôi đề nghị cơ quan thi hành án (THA) giao nhà mà tôi đã trúng đấu giá nhưng nơi này thì bảo nơi kia đang giải quyết khiếu nại của chủ tài sản nên chưa thể giao. Chuyện này khiến tôi nhọc nhằn quá…” - bà Lê Hương Thuần (ngụ thị xã Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh) phản ánh.
Bà Thuần cho biết năm 2011, bà đấu giá trúng căn nhà của bà Nguyễn Thị Kim Thu do Cục THA dân sự tỉnh bán đấu giá và bà nộp đủ số tiền gần 1,75 tỉ đồng. Bốn tháng sau, Cục THA dân sự tỉnh ra quyết định, thông báo thời điểm cưỡng chế để giao nhà cho bà. Tuy nhiên, ít ngày sau, Cục lại tạm dừng việc cưỡng chế vì phải xem xét đơn khiếu nại của bà Thu.
Bà Thuần bức xúc: “Tôi đã chờ mãi nhưng vẫn chưa thấy các cơ quan chức năng có động tĩnh gì. Các cơ quan chức năng dường như đang cố tình kéo dài làm tôi bị thiệt hại nghiêm trọng. Cụ thể, số tiền tôi đã nộp là do vay mượn nhiều người mới có. Do chưa có nhà nên tôi không thể thế chấp để vay tiền trả nợ. Tôi đã khiếu nại nhiều lần nên rất tốn kém chi phí đi lại. Chưa kể tôi còn bị thiệt hại về tinh thần vì vụ việc đã kéo dài mà vẫn không có ai đứng ra giải quyết. Nay tôi chỉ muốn nhanh chóng được nhận nhà nhưng không biết là bao giờ”.
Phía Cục THA dân sự tỉnh Tây Ninh cho biết việc khiếu nại đòi giao nhà của bà Thuần là có cơ sở. Tuy nhiên, Cục chưa tổ chức giao tài sản được là do Tổng cục đang xem xét giải quyết khiếu nại lần hai của bà Thu (bà Thu khiếu nại cơ quan THA về việc bị thu tiền nhưng trong bảng kê khai chấp hành viên không thể hiện, quyết định kê biên và trình tự bán đấu giá không đúng...). Cục THA tỉnh đã giao cho chấp hành viên tiếp tục tổ chức THA theo luật định khi có kết quả giải quyết của Tổng cục...
3. Báo Điện tử Sài Gòn tiếp thị Media có bài Lại một dự thảo chính sách “giời ơi” của bộ Y tế. Bài báo phản ánh: Bộ Y tế vừa mới trình Chính phủ bản dự thảo nghị định về kinh doanh và sử dụng các sản phẩm dinh dưỡng dùng cho trẻ nhỏ, bình bú và vú ngậm nhân tạo. Ý tưởng của dự thảo chính sách này là nhằm đưa việc quản lý các sản phẩm trên vào trật tự.
Tuy nhiên, ngay từ bản dự thảo mới được trình này, nó đã vấp phải nhiều ý kiến phản đối vì những quy định rất phi thực tế.
Ngay trong điều 2 của dự thảo nghị định đã có những điểm rất dễ gây nhầm lẫn khiến người tiêu dùng không hiểu thông tin rõ ràng sẽ, dẫn tới việc cho con ăn không khoa học và hệ luỵ là trẻ có nguy cơ suy dinh dưỡng cao. Cụ thể, khoản 2, điều 2 của dự thảo nghị định viết: Sản phẩm thay thế sữa mẹ là:
a) Sữa công thức hoặc sản phẩm dinh dưỡng công thức có sữa dùng cho trẻ đến 12 tháng tuổi (infant formula).
b) Sữa công thức hoặc sản phẩm dinh dưỡng công thức có sữa dùng cho trẻ từ 6 – 24 tháng tuổi (follow up formula).
Quy định như trên thì gần như sữa nào cũng có thể thay thế sữa mẹ. Vậy các bà mẹ cho con ăn bổ sung bằng gì? Người tiêu dùng lâu nay vẫn luôn phải đặt câu hỏi: Thế nào là sản phẩm sữa thay thế sữa mẹ? Nhưng nếu giải thích như dự thảo nghị định này các bà mẹ có nên cho con dùng sữa mẹ không?
Điều đáng ngạc nhiên là các tác giả của dự thảo nghị định còn đưa vào quy định: “Sữa phải có chỉ định của bác sĩ”. Đây là một điều không khả thi, phi thực tế vì hiện nay, ở hầu hết các bệnh viện, nhất là ở các bệnh viện nhi, khoa nhi, tình trạng quá tải của bác sĩ là thấy rõ. Và với những việc rất cụ thể như sữa phải kê đơn là uống loại sữa nào, hay bác sĩ chăm chăm đi kiểm tra, giật bình sữa của các bà mẹ cho con bú có phải loại sữa do mình chỉ định không thì đây là việc không thể làm được.
Giám đốc bệnh viện Hùng Vương, ông Nguyễn Văn Trương khi đọc dự thảo nghị định này đã cho biết, một nhân viên y tế thường phải phụ trách 20 bệnh nhân nên không thể hướng dẫn cho con bú bằng sữa mẹ. “Họ không có thời gian và trách nhiệm phải nhắc nhở hàng ngày về việc các bà mẹ phải cho con bú”, ông nói.
Hơn nữa, nếu các bệnh viện cử cán bộ, nhân viên đi làm việc này thì đó cũng là hình ảnh không đẹp và không đúng. Nuôi con thế nào đó là quyền của phụ nữ. Vấn đề nằm ở đây là ngành y tế cần phải làm tốt hơn trong việc tuyên truyền, hướng dẫn về sữa mẹ, cách dùng sản phẩm sữa để người dân hiểu cách nào tốt nhất. Nhưng trong khi chưa làm được việc đó, bộ Y tế lại đề xuất một cách đơn giản là ra lệnh cấm, buộc chỉ định sử dụng sản phẩm như thế này nó cho thấy bộ Y tế chưa rõ ràng trong chính sách và mục tiêu quản lý.
Trong dự thảo nghị định trên, bộ Y tế cũng đưa vào quy định cấm quảng cáo sữa cho trẻ đến 24 tháng tuổi. Đây cũng là điều không hợp lý và nó trái với luật Quảng cáo. Nếu chính sách này được thực thi, thì các doanh nghiệp mới sẽ không thể tham gia thị trường sữa, không thể kinh doanh vì họ không được đưa thông tin về sản phẩm tới người tiêu dùng.
Được biết, mới đây, bộ Tư pháp đã có công văn số 41/BTP-PLDSKT gửi Văn phòng Chính phủ, bộ Y tế nêu những ý kiến quan ngại tương tự như trên. Bộ Tư pháp cho rằng, cơ quan soạn thảo dự thảo nghị định này (bộ Y tế) cần phải làm rõ hơn sự cần thiết ban hành nghị định; một số quy định không phù hợp với các luật, nghị định khác như luật Quảng cáo. Hay cụ thể với điều 2 của dự thảo nghị định, bộ Tư pháp cũng cho rằng, bộ Y tế đã đưa ra quy định “trái với quy chuẩn kỹ thuật Việt Nam về dinh dưỡng công thức” đã được quy định tại khoản 2, điều 2 của luật Tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật. Và một loạt quy định khác trong dự thảo nghị định về thức ăn bổ sung, cấm quảng cáo hình ảnh bào thai hoặc trẻ sơ sinh trong sản phẩm sữa… được bộ Tư pháp cho là: không phù hợp hoặc không cần thiết…
Nhiều ý kiến cho rằng một bản dự thảo nghị định chỉ mười trang giấy nhưng có nhiều “hạt sạn” như vậy cho thấy, các tác giả của dự thảo chính sách này nên đọc lại, nghiên cứu lại, có những điều chỉnh cần thiết để có một bản dự thảo chính sách tốt hơn trước khi trình Chính phủ xem xét, thông qua.
4. Báo Đại đoàn kết có bài Vụ oan sai của ông Nguyễn Thanh Chấn: Bồi thường thiệt hại như thế nào?. Bài báo phản ánh: Việc cơ quan tố tụng tỉnh Bắc Giang đòi hỏi ông Nguyễn Thanh Chấn phải chứng minh thiệt hại của mình trong 10 năm ngồi tù oan đã khiến dư luận bức xúc. Nỗi bức xúc này, trước hết, là do cơ quan tiến hành tố tụng thiếu thận trọng, thiếu sự giải thích rõ ràng về việc chứng minh. Về phía dư luận, do chưa tìm hiểu kỹ quy định của pháp luật, nên đã có những lo lắng.
Về bồi thường thiệt hại, pháp luật hiện hành của Việt Nam có hai văn bản: Luật số 35/2009/QH 12 về Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và Bộ luật Dân sự (BLDS) Việt Nam đã dành hẳn một chương - Chương XXI, với 27 điều (604 - 630) để quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trong số đó có các điều: 605, 609, 611, 613 và 620 là những điều có liên quan trực tiếp đến vụ ông Nguyễn Thanh Chấn.
Ngoài những điều đã được quy định trong BLDS cần phải tham chiếu đầy đủ Luật về Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, đặc biệt là những quy định tại Chương V của Luật này.
Căn cứ vào những điều luật đã quy định trong hai văn bản Luật đã nêu trên, có thể kết luận rằng: Ông Nguyễn Thanh Chấn, trong thời gian bị ngồi tù oan, đã chịu 3 loại thiệt hại nặng nề đối với bản thân, gia đình, dòng họ: 1) Thiệt hại do bị ngồi tù oan trong 10 năm mà bị mất thu nhập trong lao động; 2) Thiệt hại về sức khỏe, tinh thần do bị dùng nhục hình, bị bức cung, mớm cung trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử; 3) Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. Ông Chấn phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời theo quy định của Điều 605.
Là con liệt sĩ, là người sống lương thiện nhưng bị buộc tội và ngồi tù oan suốt 10 năm trời, ông Chấn đã mất đi 10 năm tuổi thanh xuân của cuộc đời. Ông và gia đình ông ngày đêm phải chịu sự kỳ thị của dư luận. Vợ ông phải 10 năm đội đơn gõ mọi cửa để kêu oan cho chồng. Cuối cùng do sức kiệt, bà ốm đau đến thập tử nhất sinh. Con cái ông phải bỏ học. Lượng giá thiệt hại về vật chất có thể làm được. Nhưng lượng giá thiệt hại về tinh thần, danh dự và nhân phẩm thật khó chính xác. Vì vậy, luật dùng các từ "bồi thường và bù đắp” và hai bên có thể thương lượng, thỏa thuận. Luật đã quy định nếu hai bên không thỏa thuận được với nhau thì mức tối đa không quá 30 tháng lương tối thiểu đối với trường hợp thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm và 10 tháng lương khi danh dự, nhân phẩm bị xâm phạm.
Việc đòi hỏi bồi thường thiệt hại trong các vụ án dân sự, của phần dân sự trong các vụ án hình sự phải do bên bị thiệt hại đưa ra và phải được chứng minh. Việc chứng minh thiệt hại là cần thiết để đảm bảo tính xác thực của đòi hỏi bồi thường. Nhưng điều đó không đòi hỏi là mọi thiệt hại phải được xác nhận bởi cơ quan nào khác vì có những sự kiện mà bản thân nó đã chứng minh được thiệt hại rồi. Ông Chấn bị ngồi tù oan 10 năm là sự kiện tự bản thân nó chứng minh ông mất thu nhập lao động trong 10 năm trời, ông gánh chịu thiệt hại về vật chất, về tinh thần mà không cần đòi hỏi nguyên đơn phải có giấy chứng thực nào nữa của chính quyền.
Về trách nhiệm đền bù thiệt hại của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng, theo Điều 620 BLDS thì "cơ quan tiến hành tố tụng phải bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của mình gây ra khi thực hiện nhiệm vụ trong quá trình tiến hành tố tụng. Cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm yêu cầu người có thẩm quyền đã gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật, nếu người có thẩm quyền có lỗi trong khi thi hành nhiệm vụ.”
Vận dụng quy định của điều luật này vào vụ ông Chấn thì TAND tỉnh Bắc Giang - cơ quan đã ra bản án phúc thẩm kết tội oan ông Chấn, phải có trách nhiệm đền bù thiệt hại cho ông Chấn cho dù sai phạm xảy ra từ khâu điều tra. Nếu sai phạm được loại trừ từ khâu truy tố thì cơ quan điều tra có trách nhiệm bồi thường. Nếu sai phạm được loại trừ từ khâu xét xử thì cơ quan kiểm sát có trách nhiệm bồi thường. Nếu án oan xảy ra trong khâu xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm thì tất cả các cán bộ trong khâu điều tra, truy tố, xét xử đều có trách nhiệm hoàn trả công quỹ tiền đền bù thiệt hại cho người bị oan, chứ không riêng cán bộ của ngành tòa án cho dù họ có bị truy tố về hình sự hay không. Tất cả họ phải có trách nhiệm đền bù về mặt dân sự cho người bị oan. Đó là lẽ công bằng và công lý của xã hội văn minh.