Điểm tin báo chí sáng ngày 23 tháng 10 năm 2009

23/10/2009
Trong buổi sáng ngày 23/10/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Trước tình hình giá xăng dầu thế giới tăng mạnh, 3 doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu gồm Tổng Công ty Dầu VN (PV Oil), Công ty Petec và Công ty Thương mại dầu khí Đồng Tháp đã có văn bản gửi Liên bộ Tài chính - Công thương đề nghị được tăng giá bán xăng dầu thêm 500 - 700 đồng/lít. Trao đổi với phóng viên Báo SGGP, ông Nguyễn Xuân Trình, Phó tổng giám đốc phụ trách kinh doanh của PVOil cho biết, giá dầu thế giới đang tiếp tục tăng mạnh, nếu không tăng giá bán, doanh nghiệp sẽ lỗ rất nặng.
Theo tính toán, trong 20 ngày qua, giá xăng thành phẩm dao động ở mức bình quân 74 USD/thùng, thế nhưng hiện tại, xăng A92 tại thị trường Singapore đang chào bán với giá 79 - 80 USD/thùng, giá dầu diesel và dầu hỏa thành phẩm cũng dao động quanh ngưỡng 84 USD/thùng, dầu mazut giá 456 USD/tấn. Với giá bán này, sau khi trừ đi các khoản chi phí, thuế, hoa hồng, kho bãi... khi bán mỗi lít xăng, doanh nghiệp đang bị lỗ khoảng 1.000 đồng với mỗi lít dầu và khoảng 700 đồng mỗi lít xăng.
2. Báo điện tử Vnexpress phản ánh: Theo báo cáo của Chính phủ gửi Quốc hội, trong năm 2009 đã có 211 cán bộ, công chức nộp lại quà cho cơ quan, tổ chức với tổng giá trị 66,5 triệu đồng. 149 người đứng đầu bị xử lý kỷ luật do để xảy ra tham nhũng. Về hình thức kỷ luật, trong số 149 người đứng đầu bị xử lý trong năm 2009 thì có 13 trường hợp bị xử lý hình sự, 50 người bị khiển trách, 58 người bị cảnh cáo và 25 người bị cách chức. TP HCM là địa phương có số người đứng đầu bị xử lý nhiều nhất - 38 trường hợp. Bộ Công an cũng có 10 trường hợp bị kỷ luật.
Theo báo cáo của Chính phủ, từ ngày 1/10/2008 đến nay, các cơ quan chức năng đã khởi tố 243 vụ án với 520 bị can về các tội danh tham nhũng. Viện Kiểm sát nhân dân các cấp đã truy tố 290 vụ với hơn 700 bị can. Tòa án nhân dân các cấp xét xử 229 vụ với 537 bị cáo. Tổng giá trị tài sản bị tham nhũng, gây thiệt hại do tham nhũng phát hiện được là trên 700 tỷ đồng, đã thu hồi được một nửa, số còn lại đang tiếp tục thu hồi. Trong số bị cáo đã xét xử, mức hình phạt cao nhất đối với tội danh này là chung thân.
Trong năm qua, các cơ quan chức năng cũng đã phát hiện hơn 200 vụ việc vi phạm quy định về chế độ, định mức, tiêu chuẩn, với tổng giá trị sai phạm là 16,5 tỷ đồng; có 13 cán bộ công chức bị xử lý hình sự. Đặc biệt, đã có 211 cán bộ, công chức nộp lại quà cho cơ quan, tổ chức, đơn vị với tổng giá trị 66,5 triệu đồng. Chính phủ thừa nhận một số vụ việc, vụ án tham nhũng chậm được xử lý và xử lý chưa nghiêm. Tình trạng nhũng nhiễu của một bộ phận cán bộ, công chức trong việc giải quyết công việc của người dân, doanh nghiệp đang gây bức xúc trong xã hội. Một trong nhiều nguyên nhân của tình trạng này theo Chính phủ là trách nhiệm của nhiều cơ quan, đơn vị, cá nhân người đứng đầu chưa được đề cao. Tư tưởng sợ trách nhiệm, che giấu khuyết điểm, bệnh thành tích, thiếu kiên quyết trong đấu tranh chống tham nhũng còn nhiều.
3. Báo Hà Nội mới phản ánh: Sáng 23-10, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Đoàn đại biểu cấp cao Chính phủ Việt Nam rời Hà Nội tham dự Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 15 và các hội nghị cấp cao liên quan giữa ASEAN với các đối tác bên ngoài gồm: ASEAN+1, ASEAN+3 và Đông Á (EAS) với sự tham dự của lãnh đạo các nước ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Ốt-xtrây-li-a và Niu Di-lân được tổ chức tại Hủa Hỉn, Thái Lan từ ngày 23 đến 25-10. Tham gia đoàn có: Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Gia Khiêm; Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng; Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Nguyễn Thị Kim Ngân.
Mục tiêu chung của Đoàn Việt Nam tham dự hội nghị lần này là góp phần tích cực thúc đẩy đoàn kết và liên kết ASEAN, đẩy mạnh hơn nữa hợp tác giữa ASEAN với các đối tác bên ngoài, qua đó phát huy vai trò vị thế của Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam chuẩn bị đảm nhận vai trò Chủ tịch ASEAN kể từ ngày 1-1-2010.
Báo cũng phản ánh: Bão số 9 khiến 184 người chết và mất tích - thông tin trên được Ban chỉ đạo Phòng chống lụt bão (BCĐ PCLB) Trung ương cho biết vào chiều nay 22-10.
Theo đó, cơn bão số 9 với tên gọi Ketsana đổ bộ vào khu vực miền Trung, Tây Nguyên vừa qua, đã làm 172 người chết, 12 người mất tích và 860 người bị thương. Tổng thiệt hại do bão số 9 gây ra tính đến ngày hôm nay (22-10) là 14.312 tỷ đồng, trong đó, tỉnh Quảng Ngãi là địa phương thiệt hại nặng nề nhất, với tổng giá trị ước 4.870 tỷ đồng, tiếp đến là Quảng Nam với 3.500 tỷ đồng và Kon Tum là 2.026 tỷ đồng.... Cũng theo BCĐ PCBL Trung ương, bão số 9 đã làm sập, đổ, cuốn trôi 21.734 ngôi nhà, khiến 26.255 người dân phải di dời tránh bão; xấp xỉ 100.000 ha lúa và hoa màu bị hư hại, với hơn 3.000 ha ao, hồ nuôi trồng thủy sản bị mất trắng.
4. Báo điện tử Vietnamnet có bài Trách nhiệm của đại biểu Quốc hội. Bài báo phản ánh: Tại Kỳ họp thứ 6, Khoá XII lần này, QH sẽ xem xét, quyết định chủ trương đầu tư dự án Nhà máy Thủy điện Lai Châu và dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Đây là 2 dự án lớn và có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống dân sinh và sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Việc có thực hiện 2 dự án này không cho đến giờ chỉ còn chờ vào sự quyết định của QH, cụ thể là chờ vào cái bấm nút thông qua của các ĐBQH. Và một nỗi lo lắng lại bắt đầu dấy lên về sự đúng đắn của các quyết định thông qua việc bấm nút. Lo lắng này không phải là không có cơ sở khi mà cả hai dự án trên đều là những dự án lớn, và nhất là cũng không dễ dàng để hiểu cặn kẽ những vấn đề liên quan đến nó.
Đối với dự án điện hạt nhân Ninh Thuận- đây là dự án có ý nghĩa chiến lược trong cân bằng năng lượng phục vụ phát triển nhanh, bền vững của đất nước. Nhưng đây cũng là một dự án không dễ nghiên cứu đối với các ĐBQH. Vì sao phải xây dựng nhà máy điện hạt nhân vào thời điểm này? Nếu xây dựng thì những yếu tố cần và đủ là gì? Phải bảo đảm những yêu cầu gì về nguồn vốn đầu tư, về công nghệ, về độ an toàn và nhiều vấn đề phát sinh khác...
Với Dự án thủy điện Lai Châu cũng vậy. Nếu được QH chấp thuận chủ trương đầu tư triển khai xây dựng vào cuối năm 2010 thì đến cuối năm 2016 sẽ hoàn thành. Đây là công trình thủy điện không những có vai trò quan trọng trong việc phát triển điện, cấp nước cho đồng bằng sông Hồng về mùa khô mà còn tạo cơ hội phát triển kinh tế- xã hội hai tỉnh Lai Châu và Điện Biên, đảm bảo an ninh quốc phòng khu vực Tây Bắc.
Trong đợt thẩm tra sơ bộ dự án, Phó Chủ nhiệm UB Khoa học, công nghệ và môi trường của Quốc hội Nghiêm Vũ Khải đã lưu ý: Cần sử dụng tư vấn giám sát độc lập trong quá trình thiết kế, thi công để nâng cao hiệu quả đầu tư và tránh những sự cố tai nạn như đã xảy ra đối với một số công trình xây dựng lớn vừa qua. Và ông Khải cũng nêu vấn đề bảo đảm an quốc phòng - an ninh trong quá trình thực hiện công trình này vì thủy điện Lai Châu thuộc bậc trên cùng của dòng sông Đà, giáp với biên giới Trung Quốc. Ông Khải cũng đề nghị cơ quan thực hiện nghiên cứu phương án cụ thể để đảm bảo an ninh, an toàn khi ngập lụt xảy ra. Tuy nhiên đấy là ý kiến của một Phó Chủ nhiệm Ủy ban với nhiều thông tin và kiến thức. Còn lại chúng ta không thể bảo đảm, không thể kỳ vọng tất cả các ĐBQH đều có một cái nhìn đa chiều về một dự án. Vậy thì nỗi lo bấm nút là điều có thật!
Vẫn biết khi dự án đầu tư được đưa ra xem xét, quyết định tại QH thì kèm theo nó sẽ có các buổi thảo luận chi tiết và cụ thể về từng dự án. Các ĐBQH sẽ có điều kiện tiếp cận các thông tin đa dạng và các ý kiến, phân tích cụ thể. Tại Kỳ họp lần này, QH cũng sẽ dành tới 9 Phiên họp toàn thể để giám sát, xem xét và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. So với Kỳ họp thứ Năm, chỉ có 3,5 phiên thì con số 9 là đáng ghi nhận. Tuy nhiên, không thể nói tất cả các vấn đề khúc mắc đều được giải quyết trong các phiên thảo luận. Và cũng không thể nói các ĐBQH sẽ có quyết định đúng đắn nhất chỉ qua các phiên thảo luận. Hơn nữa lại có quá nhiều yếu tố để đi đến một quyết định đúng đắn. Bởi vì sự thống nhất của số đông không phải bao giờ cũng đồng nghĩa với một kết quả đúng mà có khi số ít ý kiến lại là những căn cứ rất tốt để các ĐBQH nhìn vào đó mà tự tìm cho mình một kết luận.
QH là chốt chặn cuối cùng cho việc có thông qua việc triển khai thực hiện một dự án hay không. Trách nhiệm này đặt lên vai từng ĐBQH cụ thể. Và khi đó cái bấm nút thông qua không chỉ đơn thuần là việc xác nhận đại biểu có tham dự biểu quyết mà nó còn có quá nhiều ý nghĩa to lớn khác. Ở tầm vĩ mô, đó là quyết định đến sự phát triển KT- XH của đất nước. Ở tầm vi mô, đó là quyết định đến đời sống dân sinh của hàng triệu triệu người Việt Nam...
Hình như đâu đó cũng đã từng có ý tưởng về việc hiển thị tên của ĐBQH trong từng lần bấm nút. Như vậy ai đồng tình, ai phản đối sẽ rõ ràng và tính tự chịu trách nhiệm của ĐBQH vì thế cũng cao hơn. Đó là chuyện chưa xảy ra. Nhưng xét cho cùng, điều đó cũng không hẳn quan trọng. Mà điều quan trọng hơn cả vẫn là ý thức của từng đại biểu. Nếu ý thức được trọng trách của mình, vai trò của mình trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước thì tự thân các đại biểu sẽ có ý thức trong việc bấm nút thông qua.
Cái bấm nút- chỉ trong tích tắc là thực hiện xong. Nhưng đòi hỏi ở ĐBQH nhiều ngày suy nghĩ, nhiều đêm trăn trở...
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Tuổi trẻ phản ánh: Ngày 22-10, mở rộng điều tra vụ “chạy án” xảy ra tại TAND tỉnh Quảng Ninh, cơ quan điều tra khởi tố bổ sung đối với bị can Trần Thị Ngọc Tú (nguyên luật sư Công ty luật Chính Tâm, trụ sở tại phố Đông Các, Hà Nội) về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Viện KSND tối cao đã phê chuẩn quyết định trên. Trước đó, bị can Tú đã bị khởi tố về tội làm môi giới hối lộ.
Ngày 20-9-2008, tại khách sạn Trường Giang, TP Hạ Long, cơ quan điều tra bắt quả tang ông Hà Công Tuấn - nguyên thẩm phán TAND tỉnh Quảng Ninh, ông Vũ Ngọc Sơn - nguyên cán bộ Công an tỉnh Quảng Ninh - đang nhận 200 triệu đồng của gia đình bị can Lý Chính Trung (trong vụ án buôn bán tân được do Công an Quảng Ninh khởi tố điều tra) để “chạy án” cho bị can này. Cơ quan điều tra xác định khoảng tháng 4-2008, bộ đội biên phòng tỉnh Quảng Ninh phối hợp với công an tỉnh bắt quả tang Lý Chính Trung vận chuyển gần 8.000 viên tân dược vào Việt Nam. Ban đầu, cơ quan điều tra Công an Quảng Ninh khởi tố bị can tội mua bán vận chuyển trái phép chất ma tuý. Gia đình bị can đã thuê Công ty luật Chính Tâm bảo vệ quyền lợi cho bị can và nhờ công ty chạy án cho bị can. Giám đốc công ty là ông Nguyễn Ngọc Chính đã nhận lo chạy án và chỉ đạo luật sư Trần Thị Ngọc Tú yêu cầu gia đình chuẩn bị tiền để giải quyết công việc.
Trong quá trình này, gia đình bị can giao tổng cộng 285 triệu đồng cho Tú và Chính. Tuy nhiên tháng 5-2008, Công an Quảng Ninh trưng cầu giám định tang vật là lô tân dược, thuốc giảm béo, không có chất ma túy trong số tân dược do bị can vận chuyển nên đã chuyển tội danh thành buôn lậu và vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới. Khi vụ án được chuyển sang TAND tỉnh Quảng Ninh, thẩm phán Hà Công Tuấn được phân công thụ lý. Đến thời điểm này, Tú và Chính yêu cầu gia đình bị can Lý Chính Trung chi thêm 200 triệu đồng để chạy và số tiền sẽ giao trực tiếp cho thẩm phán. Ngày 20-9-2008, khi gia đình bị can Trung giao tiền thì cơ quan điều tra bắt quả tang vụ nhận hối lộ này.
Mở rộng điều tra vụ án, cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can, bắt tạm giam 4 bị can gồm Nguyễn Ngọc Chính - nguyên giám đốc Công ty luật Chính Tâm, trụ sở tại phường Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa, Hà Nội, bà Trần Thị Ngọc Tú - nguyên luật sư tập sự của Công ty luật Chính Tâm, ông Hà Công Tuấn - nguyên thẩm phán TAND tỉnh Quảng Ninh, ông Vũ Ngọc Sơn - nguyên cán bộ Công an tỉnh Quảng Ninh.Trong quá trình điều tra, Viện KSND tối cao thấy Trần Thị Ngọc Tú có dấu hiệu lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên đã yêu cầu khởi tố bổ sung để điều tra đối với bị can.
2. Báo Kinh tế Sài Gòn có bài Soạn luật: bài học đi từ thực tiễn. Bài báo phản ánh: Quy trình xây dựng pháp luật ngày nay đã được quy định khá chặt chẽ và rõ ràng. Tuy nhiên, làm thế nào để tạo được một bộ luật khả thi và có sức sống thật mạnh mẽ thì Luật Doanh nghiệp chính là một hình mẫu. Nhân kỷ niệm 10 năm ngày ra đời Luật Doanh nghiệp, luật sư Trần Hữu Huỳnh, Trưởng ban Pháp chế Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), đã kể vài câu chuyện thú vị về quá trình soạn thảo luật này.
Luật Doanh nghiệp được khởi thảo từ 1995 và kéo dài ròng rã trong bốn năm, đây là một quá trình nghiên cứu, khảo sát, tranh luận, phản biện… rất công phu. Nhưng tranh cãi gay gắt nhất là những vấn đề liên quan đến quyền tự do kinh doanh của công dân. Quan niệm chi phối ban đầu chịu ảnh hưởng của Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân 1990 là “công dân chỉ được kinh doanh những gì mà Nhà nước cho phép”. Do đó, mọi hành vi, từ việc thành lập doanh nghiệp đến các hoạt động kinh doanh cụ thể đều phải được cấp phép. Nhiều cán bộ có thẩm quyền thẳng thừng: Đã quản lý nhà nước là phải cấp phép mà cấp phép là phải “xin-cho”.
Trong điều kiện như vậy, theo kế hoạch ban đầu, luật được thiết kế theo hướng liệt kê tất cả những ngành nghề kinh doanh được phép thành một danh mục, các đối tượng được phép kinh doanh thành một danh mục. Công dân, nếu đáp ứng hai danh mục này, thì mới được phép kinh doanh. Thế nhưng, khi đi vào tìm hiểu thực tế thì thấy rằng cách thiết kế dự luật theo hướng “đóng” này là không ổn, gây bất lợi cho cả công dân, người kinh doanh lẫn quản lý nhà nước. Để có được kết luận như vậy, ban soạn thảo đã tiến hành điều tra, khảo sát, cùng VCCI tổ chức hàng chục cuộc hội thảo từ Nam chí Bắc; lấy ý kiến của nhiều chuyên gia và hàng ngàn doanh nghiệp. Hầu hết đều cho rằng “nhân sinh, bách nghệ”, mưu sinh là quyền và lẽ tự nhiên của con người, do đó nếu thiết kế theo hướng “đóng” thì vừa không hợp lẽ tự nhiên vừa không phù hợp với quy định của Hiến pháp 1992 “công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”.
Trên cơ sở thực tiễn đó, kết hợp với nghiên cứu kinh nghiệm của các nước, một phương án “mở” được hình thành. Thay vì liệt kê danh mục ngành nghề kinh doanh được phép thì chỉ liệt kê danh mục ngành nghề cấm kinh doanh và kinh doanh có điều kiện; thay vì liệt kê các đối tượng được phép kinh doanh thì chỉ liệt kê các đối tượng cấm kinh doanh, thay vì Nhà nước cho phép thành lập doanh nghiệp thì nhà đầu tư chỉ cần làm thủ tục đăng ký kinh doanh. Ý tưởng này lúc đầu đưa ra nghe rất lạ và đụng chạm gay gắt vì quan niệm xin-cho, quan niệm công dân chỉ được làm những gì được phép đã thấm rất sâu vào não trạng của bao người.
Khó khăn nhất là khi thảo luận với các cơ quan quản lý nhà nước; ngay cả một số doanh nghiệp đã được thành lập lúc được hỏi cũng cho rằng cần duy trì theo cách cũ, nghĩa là muốn kinh doanh phải có giấy phép thành lập. Thậm chí, khi thảo luận, có một vài đại biểu Quốc hội lo lắng: “Nếu luật thoáng như vậy, lỡ sau một đêm ngủ dậy, hàng triệu doanh nghiệp tư nhân mọc lên như nấm thì vai trò chủ đạo của doanh nghiệp quốc doanh còn đâu?”. Tuy nhiên, điều quan trọng là cuối cùng tư tưởng tiến bộ “công dân được quyền kinh doanh tất cả những gì mà pháp luật không cấm” đã thắng thế với việc Luật Doanh nghiệp được Quốc hội biểu quyết thông qua vào ngày 12-6-1999.
Có thể rút ra mấy nguyên nhân thành công sau đây. Một là quá trình soạn luật cần gắn chặt và biết lắng nghe “tiếng nói” của thực tiễn. Chính việc tìm hiểu những nhu cầu bức xúc của cuộc sống đã giúp cho ban soạn thảo luật biết cách xây dựng một bộ luật phù hợp. Hai là quá trình lấy ý kiến phải đa dạng, đa chiều từ các nhóm có lợi ích đối lập. Một số doanh nghiệp lúc đầu được hỏi cũng cho rằng cần duy trì giấy phép, cũng như hệ thống vốn pháp định. Hóa ra, đề nghị của họ chẳng qua là để hạn chế việc gia nhập thị trường trong lĩnh vực mà họ đang kinh doanh mà thôi. Với những trường hợp như vậy, việc lắng nghe ý kiến nhiều chiều sẽ rất có lợi vì giúp cho người soạn thảo có những kết luận tỉnh táo, đúng đắn. Ba là phải có sự tranh luận, phản biện và đặc biệt, phải có ý kiến giải trình. Quá trình soạn thảo cho thấy nhờ những cuộc tranh luận sôi nổi, thậm chí nảy lửa, ban soạn thảo đã tìm ra được phương án phù hợp “người dân được kinh doanh những gì mà pháp luật không cấm”.
Một yếu tố khác không kém phần quan trọng là vấn đề triển khai thực hiện luật. Sau khi Luật Doanh nghiệp được thông qua, một vấn đề nan giải phát sinh mà nếu không giải quyết được thì Luật Doanh nghiệp dù “thoáng” cỡ nào cũng chẳng có ý nghĩa gì. Đó là vấn nạn giấy phép “con”. Giấy phép “con” vừa gây khó khăn cho việc gia nhập thị trường của doanh nghiệp, vừa là dư địa của nhũng nhiễu, tiêu cực. Vì thế, Tổ công tác thi hành Luật Doanh nghiệp mà các thành viên chủ yếu lấy từ ban soạn thảo lại tiếp tục “trường chinh” với việc kiến nghị bỏ giấy phép “con”. Đề xuất này bị các bộ, ngành phản ứng rất dữ. Các cuộc hội thảo lấy ý kiến đóng góp bao giờ cũng nóng lên giữa một bên đề nghị bỏ và một bên yêu cầu tiếp tục duy trì trật tự cũ. Các thành viên trong tổ công tác đã vận dụng sách lược kiên trì lập luận, kiên trì thuyết phục để bỏ, sửa từng giấy phép một. Một số bộ, ngành có thái độ “rắn” muốn giữ giấy phép “con”.
Ông Trần Xuân Giá hồi đó với tư cách Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, kiêm tổ trưởng tổ công tác đã đích thân dẫn các thành viên đi gặp riêng từng bộ để “thuyết khách” cho đến khi họ… chịu mới thôi. Ông lập luận rằng lúc này phải kiên quyết thì mới thành công. Hóa ra, lãnh đạo cấp bộ có nhiều vị chẳng hề biết bộ mình có bao nhiêu giấy phép cũng như nạn giấy phép “con”. Người nắm việc này rõ nhất lại là các vụ. Có ông cấp vụ lúc thảo luận công khai thì tranh cãi quyết liệt về tính hợp pháp, hợp lý cần duy trì giấy phép nhưng khi gặp nhau riêng tư thì thú thật: “Tôi biết trước sau gì giấy phép “con” cũng nên bỏ. Tuy nhiên, mấy anh thông cảm vì đây đang là niêu cơm của nhiều người, hãy thư thả cho chúng tôi…”. Buồn và cay đắng! Nhưng điều đáng mừng là sau đó ít lâu, chính bộ này đã ra văn bản bãi bỏ liền một lúc mấy cái giấy phép “con”.
Có thể nói sau cuộc “cách mạng” Luật Doanh nghiệp, đề xuất bỏ giấy phép “con” lại một lần nữa tạo ra bước đột phá ngoạn mục khi đưa ra một cách tiếp cận mới tiến bộ hơn về quản lý. Đó là mô hình quản lý theo cơ chế “tiền đăng, hậu kiểm” thay cho mô hình “tiền kiểm, hậu buông”. Điều thú vị là ở chỗ chính một số cơ quan nhà nước, qua các cuộc tranh luận nảy lửa này, đã “ngộ” ra nhiều điều về vai trò “quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp”, có những người trong số họ sau này lại trở thành những người tích cực tiếp thu cái mới nói trên, chủ động đề xuất bãi bỏ nhiều thủ tục cấp phép nặng về “tiền kiểm” hình thức để chuyển sang quản lý bằng “hậu kiểm” thực chất.
Có thể nói ban hành một đạo luật tiến bộ đã là rất khó, thực thi có hiệu quả đạo luật này còn khó hơn, do đó muốn đưa được luật vào cuộc sống thì trước hết, phải biết đưa cuộc sống vào luật.


File đính kèm