I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Xin làm luật sư cho… chính mình. Bài báo phản ánh: Một luật sư kiện tranh chấp quyền sử dụng đất. Muốn được nghiên cứu hồ sơ vụ án, ông đã yêu cầu tòa cho ông làm người bảo vệ quyền lợi cho… chính mình nhưng tòa không chấp nhận.
Trước đây, luật sư Võ Văn Lãm (Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai) đã khởi kiện ông TMP ra TAND huyện Long Thành (Đồng Nai) để tranh chấp quyền sử dụng gần 5.000 m2 đất. Do vụ án có yếu tố nước ngoài nên được chuyển lên TAND tỉnh Đồng Nai và được tòa thụ lý vào tháng 11-2011.
Trong quá trình tòa giải quyết, ông Lãm đã đến tòa xin sao chụp một số tài liệu, chứng cứ liên quan (một quyền của đương sự theo BLTTDS) và được tòa chấp nhận. Tuy nhiên, chưa hài lòng với việc chỉ được “sao chụp từng tài liệu theo yêu cầu”, gần đây ông Lãm đã mang thẻ luật sư, chứng chỉ hành nghề luật sư, giấy đăng ký hoạt động văn phòng luật sư, giấy giới thiệu của văn phòng luật sư đến gặp thẩm phán giải quyết vụ án để xin cấp giấy chứng nhận là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho… chính mình. Song song đó, ông cũng đề nghị thẩm phán cho mình được nghiên cứu hồ sơ vụ án (một quyền của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự theo BLTTDS).
Sau khi xem xét, thẩm phán đã không đồng ý cấp giấy chứng nhận người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Lãm, đồng thời từ chối luôn yêu cầu được nghiên cứu hồ sơ của ông.
Mới đây, ông Lãm khiếu nại nhưng đã bị chánh án TAND tỉnh Đồng Nai bác đơn. Theo chánh án TAND tỉnh Đồng Nai, theo quy định của BLTTDS thì đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) là hai tư cách tham gia tố tụng khác nhau, có những quyền và nghĩa vụ khác nhau. Theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 58 BLTTDS, đương sự có quyền “tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình”. Theo quy định tại khoản 1 Điều 63 BLTTDS, “người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người được đương sự nhờ và tòa án chấp nhận tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự”. Vì vậy, chánh án TAND tỉnh Đồng Nai khẳng định tòa không cấp giấy chứng nhận bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cho ông Lãm là đúng với quy định của BLTTDS.
Còn về yêu cầu nghiên cứu hồ sơ vụ án, theo chánh án TAND tỉnh Đồng Nai thì BLTTDS không quy định đương sự như ông Lãm có quyền này. Do vậy, việc thẩm phán không giải quyết yêu cầu được nghiên cứu hồ sơ của ông là phù hợp. Theo điểm đ khoản 2 Điều 58 BLTTDS, đương sự chỉ có quyền “được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác xuất trình hoặc do tòa án thu thập”. Những quyền này tòa đã cho ông. Nếu ông muốn nghiên cứu hồ sơ thì phải nhờ một luật sư khác xin tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông.
Trao đổi, luật sư Lãm cho biết mục đích xin làm “luật sư cho chính mình” là nhằm chuẩn bị tốt cho việc tham gia tố tụng cũng như bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình thông qua việc nghiên cứu toàn bộ hồ sơ. Ông Lãm khá bức xúc khi cho rằng “luật không hề cấm chuyện này nhưng không hiểu sao tòa vẫn cấm?”
Luật sư Phan Trung Hoài (Đoàn Luật sư TP.HCM) phân tích: Theo BLTTHS thì địa vị pháp lý của nguyên đơn và luật sư là hoàn toàn khác nhau. Địa vị pháp lý này cũng do tòa xác định. Như vậy, một người không thể tham gia tố tụng với tư cách vừa là nguyên đơn vừa là luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chính mình được. “Tuy nhiên, nếu với tư cách là nguyên đơn và bản thân anh là một luật sư, tức có một trình độ hiểu biết nhất định, có kiến thức luật sâu hơn thì anh có thể thực hiện quyền tự bảo vệ mình tốt hơn bằng cách đưa ra những luận cứ, những kiến nghị cho vụ án” – luật sư Hoài nói.
Đồng tình, TS Lê Minh Hùng (Trưởng bộ môn Luật dân sự Trường ĐH Luật TP.HCM) cho biết: “Cả ở Việt Nam lẫn trên thế giới đều chưa có tiền lệ này”. Theo ông Hùng, một người mang “hai vai” trong một vụ án như thế thì sẽ trùng lặp về mặt ý chí và mang tính chất chủ quan, không đúng nghĩa với vai trò “trợ tá pháp lý” của luật sư. Trong khi bản chất của luật sư là “trợ tá pháp lý”, vừa bảo vệ đương sự vừa hỗ trợ tòa nhìn nhận vấn đề một cách công bằng, đúng luật. “Khi anh đứng trên hai vai trò nguyên đơn và luật sư bảo vệ quyền lợi cho chính mình thì vai trò của luật sư không được thể hiện một cách khách quan, độc lập, trung thực và tôn trọng sự thật” – TS Hùng khẳng định.
Cùng quan điểm, một thẩm phán Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM bổ sung thêm một ý: Trong tố tụng, tất cả chủ thể tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đều phải tuân thủ các quy định của các bộ luật, luật và văn bản hướng dẫn liên quan. “Luật cho phép thì làm, không cho hay chưa cho thì thôi chứ không thể lập luận là luật không cấm, luật chưa quy định thì tôi có quyền làm” – vị thẩm phán này khẳng định.
2. Báo Tuổi trẻ Online có bài Công chứng 1 thửa đất bán cho 2 người. Bài báo phản ánh: Chỉ có một thửa đất nhưng chủ đất ủy quyền cho hai người khác nhau để chuyển nhượng hai lần. Hai hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lại được công chứng tại cùng một văn phòng công chứng!
Tháng 3-2013, chị Nguyễn Thị T. được giới thiệu mua miếng đất hơn 80m² tại huyện Hóc Môn (TP.HCM) giá 413 triệu đồng. Đó là thửa đất số 423, thuộc tờ bản đồ số 9 (xã Tân Xuân, huyện Hóc Môn), có diện tích hơn 80m² do bà Hồng Tô Huệ Châu đứng tên, ủy quyền cho ông Hồ Chánh Nghĩa đứng ra giao dịch. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được lập tại Văn phòng công chứng Lý Thị Như Hòa ngày 18-3-2013, do công chứng viên Trần Trọng Thư thực hiện.
Chủ đất giao cho chị T. bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (giấy đỏ) để làm thủ tục đăng bộ, sang tên. Chị T. chưa kịp nộp hồ sơ đăng bộ thì ông Nguyễn Tuấn N. đến báo miếng đất trên đã được ông mua từ hai năm trước.
Ông Nguyễn Tuấn N. cho biết năm 2011 ông mua lô đất trên với giá 200 triệu đồng. Lần này, người được bà Huệ Châu ủy quyền là ông Hồ Chánh Nhân, em trai của ông Hồ Chánh Nghĩa. Nhưng theo ông N., ông Nghĩa đứng ra giao dịch trên thực tế còn ông Nhân chỉ có mặt vào thời điểm công chứng và ký tên vào hợp đồng. Do bên bán nhận “bao sang tên” nên sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng, ông N. giao hết giấy tờ bản chính để ông Nghĩa làm thủ tục đăng bộ, sang tên. Thấy ông Nghĩa làm thủ tục sang tên lâu quá, không giao lại giấy tờ nhà cho mình, ông N. nhiều lần gọi điện thoại giục nhưng ông Nghĩa cứ khất lần. Đến năm 2013, ông N. muốn bán miếng đất trên, định gửi cho những người môi giới nhà đất trong khu vực. Nhờ những người này, ông N. mới biết chuyện miếng đất đã được bán cho chị T..
Trao đổi với chúng tôi, bà Hồng Tô Huệ Châu xác nhận có ký hai hợp đồng ủy quyền, một lần cho ông Nhân, một lần cho ông Nghĩa. “Mảnh đất này của mợ chồng tôi mua cho. Năm 2011, vợ chồng tôi ly dị, mợ chồng kêu tôi ủy quyền cho anh Nhân là anh chồng tôi đem bán. Nhưng hơn một năm sau anh Nhân vẫn chưa làm xong thủ tục sang tên cho người ta, bà mợ lại kêu tôi ủy quyền cho anh Nghĩa để đi làm thủ tục sang tên cho thuận tiện” - bà Châu cho biết. Bà Châu nói bà không biết hai người anh chồng dựa vào việc có hai giấy ủy quyền khác nhau để bán miếng đất trên hai lần. Hiện bà đã báo sự việc trên với UBND xã Tân Xuân.
Ông N. làm đơn tố giác các ông bà Hồ Chánh Nhân, Hồ Chánh Nghĩa, Hồng Tô Huệ Châu gửi Công an huyện Hóc Môn. Chị T. cũng làm đơn khiếu nại Văn phòng công chứng Lý Thị Như Hòa gửi Sở Tư pháp TP.HCM.
Chị T. đang rất lo lắng bởi số tiền chị bỏ ra mua đất không phải nhỏ. Còn ông N. cũng bối rối không kém vì 200 triệu đồng đã bỏ ra.
Bà Lý Thị Như Hòa, trưởng Văn phòng công chứng Lý Thị Như Hòa, thừa nhận công chứng viên của văn phòng có thiếu sót do không kiểm tra kỹ dữ liệu trước khi công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bà Châu cho bà T. vào năm 2013. “Sau khi sự việc xảy ra, chúng tôi đã kiểm điểm công chứng viên. Công chứng viên cho biết không tra cứu trong hệ thống của Sở Tư pháp mà chỉ tra trong sổ lưu của văn phòng nhưng không thấy. Đến khi được anh N. báo tin, cũng phải tra cứu sổ mấy lần mới ra, có thể do cách nhập liệu có vấn đề” - bà Hòa thừa nhận.
Bà Hòa còn cho rằng do giấy ủy quyền lần 2 (của bà Châu cho ông Hồ Chánh Nghĩa) được ký tại văn phòng công chứng khác nên công chứng viên đã chủ quan “nghĩ rằng tài sản này chưa có giao dịch và cứ đinh ninh việc ủy quyền này là hợp pháp rồi” (?!). Vì vậy, khi ông Nghĩa và chị T. mang giấy đỏ bản chính và giấy ủy quyền lên, công chứng viên đã công chứng hợp đồng mua bán mà không biết rằng mảnh đất đó đã được bán từ hai năm trước.
Bà Hòa cũng cho rằng quy định không buộc công chứng viên phải tra cứu thông tin về tài sản chuyển nhượng: “Theo Luật công chứng, người yêu cầu công chứng phải đảm bảo tính xác thực, hợp pháp của các tài liệu, giấy tờ, còn văn phòng công chứng chỉ làm chứng các giấy tờ đó là có thật, các bên tự nguyện xác lập hợp đồng công chứng mà thôi”. Bà Hòa còn nói đây là một tai nạn nghề nghiệp, công chứng viên của văn phòng này bị lừa. Việc xác định thửa đất trên đã bán hay chưa nằm ngoài khả năng của công chứng viên. “Nói đến cùng, chúng tôi không phải bồi thường cho dù xét trách nhiệm liên đới. Hậu quả do hai bên tự thỏa thuận lừa dối nhau. Ở đây, các ông Hồ Chánh Nghĩa, Hồ Chánh Nhân, bà Huệ Châu phải chịu trách nhiệm bồi thường chứ không phải văn phòng công chứng” - bà Hòa khẳng định.
II- THÔNG TIN KHÁC
1. Báo Pháp luật Việt Nam có bài “Dở khóc dở mếu“ vì chứng minh thư mới. Bài báo phản ánh: Nhiều khách hàng khác là chủ nhân của những tấm CMND kiểu mới gặp cảnh dở khóc dở mếu vì phải chứng minh "tôi là tôi" khi giao dịch với nhân viên ngân hàng, sở nhà đất và văn phòng công chứng… Khó khăn trên đang làm nảy sinh tâm lý ngại dùng CMND mới trong người dân.
CMND sản xuất bằng công nghệ mới, theo chuẩn chung của quốc tế được đánh giá là khó làm giả và hy vọng tạo sự tin cậy, thân thiện với nhân dân. Tuy nhiên, từ khi ra đời đến nay, xuất hiện tình trạng người dân “khó dùng” vì những hệ lụy của dãy 12 số trên tấm căn cước mới này.
Tấm CMND cũ có dãy số gồm 9 số tự nhiên. Dãy số này được dập bởi “công nghệ” thủ công, bởi vậy có thể lẫn lộn, thiếu chính xác trong quá trình cho số. Dù hiện hữu trên tấm CMND nhưng dãy số này chưa phục vụ được cho mục đích tra cứu, tìm thông tin của một cá nhân. Với CMND cũ này thì tra cứu bằng dấu vân tay là phương pháp hữu hiệu.
Khi chuyển sang CMND mới với 12 số, Tổng cục Cảnh sát quản lý hành chính (CSQLHC) về trật tự an toàn xã hội (TTATXH -Tổng cục VII) Bộ Công an cho biết, mỗi công dân sẽ có một dãy số riêng, duy nhất, không thay đổi trong suốt cuộc đời, kể cả người đó có thay đổi về thông tin nhân thân hay nơi cư trú.
Điều này khắc phục được việc một người có nhiều số hay nhiều người cùng một số do kiểu cấp thủ công lâu nay. Mặt khác, 12 số cũng cho phép tra cứu, tìm kiếm và truy nguyên chính xác đến từng công dân. Những rắc rối với người dân lại phát sinh từ việc chuyển 9 số sang 12 số này.
Phản ánh với PLVN, chị M. ở quận Cầu Giấy (Hà Nội) cho biết, thời điểm bắt đầu triển khai cấp CMND mẫu mới, chị bị mất giấy tờ tùy thân. Khi nghe thông tin tấm căn cước mới có nhiều ưu việt, dù ở Cầu Giấy nhưng chị đã “chạy” lên tận Phòng CSQLHC về TTATXH (Công an Hà Nội) xin cấp mẫu mới để thỏa sự tò mò.
Nhưng chị đã chuốc lấy rắc rối. Khi mang tấm CMND mới này ra ngân hàng giao dịch thì không được chấp nhận do các giao dịch gửi tiền trước đây của chị được thực hiện bằng CMND 9 số cũ.
“Họ nói CMND mới 12 số là không khớp với các thông tin tôi đã lưu tại ngân hàng này. Nghe vậy tôi hoảng vì tiền để trong ngân hàng, chứng minh cũ bị mất, nhỡ ai lấy được đi rút tiền cũng nguy. Tôi đành quay về quận xin cấp lại CMND kiểu cũ, đúng như 9 số của mình trước đây. Lúc đó, ngân hàng mới chấp nhận. Cũng từ đó đến nay, tấm CMND mới tôi cất vào tủ làm… kỷ niệm”.
Cũng giống như chị M, chị T. ở quận Ba Đình (Hà Nội) cũng cho PLVN biết, chị đã làm CMND mẫu mới nhưng chỉ để “chơi” chứ chưa đưa ra giao dịch lần nào vì đã nghe nói những phiền phức sẽ gặp khi sử dụng nó. “Tôi mới chỉ rút ra vài lần để khoe bạn bè về mẫu CMND mới mà thôi”, chị T. kể.
Công luận từng phản ánh một trường hợp khác bị “hành” vì CMND mới, đó là trường hợp của chị Phạm Thúy H. ở khu tập thể Đồng Xa (Mai Dịch, Cầu Giấy, Hà Nội). Chị bị mất toàn bộ giấy tờ, trong đó có CMND, thẻ ATM... nên xin cấp lại CMND mẫu mới. Khi đến một ngân hàng trên phố Lý Thường Kiệt, Hà Nội làm thủ tục thế chấp vay tiền thì bị nhân viên ở đây từ chối cũng vì lý do CMND mới 12 số không chứng minh được chị là người trong CNMD cũ 9 số.
Chị được hướng dẫn cầm “sổ đỏ” đến Phòng Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) quận Cầu Giấy để khớp lại thông tin. Nhưng cán bộ Phòng TN&MT hướng dẫn chị phải đến UBND phường xin xác nhận. Phường hướng dẫn trái khoáy, cuối cùng chị phải “chạy” lên Công an huyện Từ Liêm và phải mất 10 ngày mới có trong tay xác nhận 9 hay 12 số đều là chị!
Thời điểm chị H. gặp rắc rối rơi vào những ngày đầu tiên ra đời CMND mẫu mới và sự lúng túng của các cơ quan liên quan là điều dễ hiểu. Nhưng đến hôm nay, sau một năm triển khai cấp thí điểm mà nhiều cơ quan vẫn chưa thong về vấn đề này mới là điều đáng phải nói.
Cuối tuần qua, khi phóng viên đi thực tế tại phòng giao dịch của một số ngân hàng thương mại thì vẫn thấy có tình trạng nơi biết, nơi không về chủ trương này. Theo một nhân viên giao dịch của Ngân hàng VP Bank, không có hướng dẫn nào của cơ quan chức năng về CMND mới nhưng vì “linh động” và muốn giữ mối nên ngân hàng này đã hướng dẫn cho giao dịch viên yêu cầu khách đăng ký thay đổi thông tin.
Còn đại diện của ngân hàng Vietcombank cho biết, khi khách hàng đổi sang CMND mới sẽ có hai cách để khách lựa chọn: nếu khách không bị thu CMND cũ thì đem CMND này đến để làm thủ tục thay đổi thông tin khách hàng; còn nếu không còn CMND cũ thì khách hàng cần phải đi xin xác nhận của cơ quan Công an về việc hai số CMND đều là của một cá nhân thì ngân hàng mới chấp nhận giao dịch.
Tại một ngân hàng khác trên phố Đào Tấn, khi phóng viên hỏi CNMD mới có giao dịch được không, nhân viên ngân hàng còn tỏ vẻ ngạc nhiên chưa biết đến CMND mẫu mới như thế nào. Sau khi được phóng viên mô tả “mới” ra sao thì nhân viên này nói nếu là khách quen thì vẫn có thể giao dịch, còn khách lạ thì chưa biết phải làm thế nào?.
2. Báo Pháp luật Việt Nam có bài “Ngân hàng hơi “chắc lép” khi khách giao dịch bằng CMND mới?. Bài báo phản ánh: Thiếu tướng Trần Văn Vệ - Phó tổng cục trưởng Tổng cụ Cảnh sát Quản lý hành chính về TTATXH cho hay, sau khi đổi CMND từ 9 lên 12 số, Tổng cục đã có văn bản gửi Ngân hàng Nhà nước thông báo sử dụng song song 2 loại CMND nêu trên, nhưng có một số ngân hàng thương mại hơi “chắc lép” khi kiểm tra giấy tờ, thực hiện giao dịch, khiến người dân kêu ca.
Ông Vệ nói: “Ngay sau khi triển khai cấp CMND 12 số thí điểm tại các quận, huyện Tây Hồ, Hoàng Mai, Từ Liêm của TP.Hà Nội, chúng tôi đã có 2 văn bản gửi Ngân hàng Nhà nước, trao đổi với Sở TN&MT Hà Nội cũng như các quận huyện, trong đó nhấn mạnh rõ CMND 9 và 12 số đều như nhau, sử dụng song song và đều do ngành Công an cấp, quản lý. Sau đó, có 2 ngân hàng đó là Thương mại CP Công thương Việt Nam và Việt Á đánh công văn hỏi chi tiết và chúng tôi cũng phúc đáp rõ ràng, kịp thời vấn đề này”.
- Nhưng rõ ràng CMND đổi từ 9 số lên 12 số, nhân viên ngân hàng phải mất thời gian hơn để đối chiếu xem khách hàng có tên trên 2 tấm CMND khi đi giao dịch có phải là một?
- Theo tôi không có gì là quá phiền hà cả, vì để hoàn thành một giao dịch, xuất được tiền ra khỏi két cho khách hàng thì ngân hàng phải thực hiện đồng thời rất nhiều tác vụ khác như kiểm tra chữ ký, tên tuổi, địa chỉ… mới có thể hoàn thành một giao dịch. Do CMND trước là một chất liệu, nay là một chất liệu khác, thì phía ngân hàng người ta có phân vân một chút, ảnh hưởng một chút thôi vì phải làm thêm động tác phô tô CMND cũ lưu lại trong hồ sơ. Thực tế, hồi đầu mới triển khai thì có người kêu nhưng nay thì không thấy nữa.
- Vì sao Bộ Công an không hướng dẫn Công an các địa phương cấp xác nhận đồng loạt cho công dân khi đến làm CMND theo mẫu 12 số để họ tiện đối chiếu với CMND cũ khi cần thực hiện các giao dịch, thưa ông?
- Ai có nhu cầu đề nghị thì Công an cấp chứ hiện tại chưa phải là một loại giấy tờ bắt buộc phải cấp khi công dân đến làm CMND theo mẫu 12 số. Thực tế, cũng có một số ngân hàng người ta hơi “chắc lép” về mặt giấy tờ thủ tục thì người ta mới hỏi, mới kiểm tra chứ giao dịch viên ngân hàng và khách hàng đều quen mặt nhau và biết nhau.
Họ biết rõ người có tên trên tấm CMND 9 số trước đây lưu ở ngân hàng với người trong CMND 12 số mới là một rồi, nhưng vẫn làm đúng thủ tục. Làm vậy thì an toàn cho ngân hàng, nhưng đôi khi lại tạo cảm giác không thoải mái đối với khách hàng.
- Việc cấp CMND 12 số có xảy ra sự cố nào về mặt kỹ thuật sau một năm thí điểm không?
- Mọi thứ nói chung là ổn. Tuy nhiên, do thời tiết ở Việt Nam độ ẩm cao nên có ảnh hưởng đôi chút khi máy đọc và lấy vân tay. Khắc phục việc này bằng cách phải thường xuyên lau chùi máy. Ngoài ra, có một số trường hợp ảnh chụp không chuẩn, mờ. Đây không phải lỗi của công nghệ mà do có nơi chụp gián tiếp rồi đem vào máy quét lại nên chất lượng của ảnh không sắc nét.
Vừa rồi, sơ kết đợt thí điểm cấp CMND mới, phát hiện có 54 trường hợp nhầm (do một người cố tình làm 2 CMND tại 2 nơi hoặc có người mượn tên để làm…) ở cơ sở. Tuy nhiên, khi lên đến Trung ương, qua Trung tâm CMND Quốc gia, qua đối sánh vân tay thì máy tự động phát hiện và loại ra hết.
- Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 106/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định về CMND trước đây. Vậy, khi nào Bộ Công an có Thông tư hướng dẫn Nghị định 106, thưa ông?
- Thực ra, Tổ soạn thảo Thông tư của chúng tôi đã sẵn sàng, ngay sau khi Chính phủ thông báo chính thức ban hành Nghị định này thì Tổ này sẽ bắt tay vào việc cho đúng theo quy trình của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, không thì “ông” Tư pháp “ông” ấy “thổi còi” ngay.
Vừa qua, do “dính” tên cha, mẹ trên mặt sau CMND, Chính phủ yêu cầu bỏ, phải dừng lại để sửa nên phải mất 6 tháng sửa Nghị định. Vì thế, chúng tôi đã phải rút gọn quy trình sửa đổi, mà đúng ra là phải mất một năm do phải lấy ý kiến của địa phương, các Bộ, ban ngành rồi công khai trên website của Bộ Công an trong 60 ngày để lấy ý kiến. Tinh thần chung là sẽ sớm hoàn thiện Thông tư hướng dẫn cụ thể và kịp thời để Công an các địa phương và nhân dân hiểu, thực hiện đúng quy định này.