I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Người đưa tin có bài Luật pháp vẫn đang đứng ngoài hụi, họ?. Bài báo phản ánh: Cho đến nay nhiều vụ vỡ hụi, họ vẫn chưa được giải quyết thoả đáng, nhiều người vẫn phải "ngậm bồ hòn làm ngọt" khi mất tiền bởi họ không có đủ thời gian, đủ khả năng để theo đuổi vụ việc đến cùng. PV báo Nguoiduatin.vn đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Trọng Tỵ, chủ nhiệm đoàn Luật sư TP.Hà Nội.
Thưa ông, thời gian gần đây, liên tiếp xảy ra những vụ vỡ hụi, họ với số tiền lên tới hàng chục tỷ đồng. Ông đánh giá vấn đề này như thế nào?
Những vụ vỡ hụi, họ xảy ra đa phần xuất phát từ lòng tham của con người. Ai cũng biết, ngay từ thuở sơ khai, hụi, họ là hình thức gom vốn tốt. Thế nhưng về sau, hụi, họ bị biến tướng, trở thành những hoạt động phi pháp, ngoài quy định của pháp luật và vi phạm pháp luật. Những vụ vỡ hụi, họ đều là những vụ lợi dụng sự quen biết, sau một thời gian tạo dựng lòng tin, kẻ có ý định chiếm đoạt liền giăng một mẻ lưới lớn, ôm số tiền khổng lồ rồi biến mất. Người mất tiền chỉ biết than thân trách phận hoặc đi trình báo cơ quan chức năng với hi vọng có thể vớt vát được ít tiền nào đó. Thế nhưng họ đâu hiểu, để được pháp luật bảo vệ, người chơi hụi, họ phải có bằng chứng cụ thể nếu không, không thể thưa kiện hay tố cáo được.
Ngược lại, chơi hụi, họ xuất phát từ lòng tham, muốn lấy lãi cao thì không có chuyện pháp luật bảo vệ. Nhiều người, vì quá tham lãi suất cao mà kéo cả họ hàng anh em vào "bát" họ, do vậy, khi vỡ họ, chủ “bát” trốn thì tất cả "ăn đòn" theo. Bởi việc cho vay tiền với lãi suất vượt quá quy định của pháp luật là phạm pháp, có thể bị xử lý trước pháp luật.
Có thể nói việc chơi hụi, họ theo kiểu ngầm với mục đích kiếm nhiều lãi theo kiểu "được ăn thua chịu" thì không có cơ chế luật pháp nào bảo vệ. Luật pháp chỉ bảo vệ những người chơi đóng góp cổ phần có hợp đồng bằng văn bản, nói cách khác là chơi "danh chính ngôn thuận".
Hụi, họ bị biến tướng, gây ra nhiều hệ lụy đau lòng, nhiều người tán gia bại sản, nhiều vụ án mạng xảy ra. Có ý kiến cho rằng sở dĩ có tình trạng này là do luật pháp đang đứng ngoài hụi, họ. Ông đánh giá thế nào về ý kiến này?
Điều 497 Bộ luật Dân sự 2005 đã có quy định nhưng trên cơ sở phải có đăng ký, phải được phép, phải có cơ sở, người tham gia phải có hợp đồng, khi đưa tiền phải có ký kết bằng văn bản. Trong luật Dân sự có quy định vấn đề có thể tự nguyện tổ chức các việc đóng góp hụi, họ để hỗ trợ cho nhau. Người có tiền chưa tiêu đến thì đóng góp, hỗ trợ cho người cần tiền. Việc này mang tính tương thân tương ái, bản chất cũng hoàn toàn khác những người tham gia mở hụi, họ vì mục đích khác. Nếu bây giờ một người cứ bảo là chủ "bát", phường, họ rồi trả lãi 15 - 20% rồi người có tiền tham lãi cao đưa ra, đến khi vỡ hụi lại mất trắng. Chuyện đó Nhà nước không cho phép. Vậy, không thể nói rằng pháp luật đang đứng ngoài hụi, họ mà chính người dân đã vì cái lợi mà không tuân thủ pháp luật.
Điều này cũng giống như chơi xổ số Nhà nước làm khuyến khích nhưng ghi số đề thì Nhà nước cấm, cùng một việc nhưng bản chất hoàn toàn khác nhau.
Nhiều người cho rằng, trong Nghị định 144 về hụi, họ không có quy định rõ ràng về chế tài trong trường hợp người vi phạm không trả hoặc trả không đủ số tiền cho người vi phạm. Ông đánh giá thế nào về vấn đề này?
Với mỗi vụ vỡ hụi, khi có văn bản, giấy tờ thì ra pháp luật, quyền lợi của mọi người sẽ được bảo vệ. Nếu chỉ góp tiền bằng miệng thì rất khó để đòi hỏi pháp luật bảo vệ. Còn khi đã ra tòa thì không thể nói là không trả. Pháp luật đã có quy định nếu sau thời hạn quy định, nếu không trả gốc thì sẽ phải tính lãi. Nếu không thi hành án có thể sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trốn thi hành án.
2. Báo Pháp luật Việt Nam có bài “Xử lý sớm phát sinh do không hiểu đúng Luật Lý lịch tư pháp”. Bài báo phản ánh: Đó là khẳng định của ông Đặng Thanh Sơn – Giám đốc Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia (Bộ Tư pháp) khi trao đổi với PLVN về những vấn đề phát sinh do việc hiểu không đúng tinh thần của Luật Lý lịch tư pháp trong việc yêu cầu cấp Phiếu số 2 hiện nay.
- Do có sự khác nhau giữa Phiếu lý lịch tư pháp số 1 và số 2 nên một số cơ quan, tổ chức đã yêu cầu công dân nộp bổ sung Phiếu số 2 mặc dù trước đó họ đã nộp Phiếu số 1, gây bất lợi cho người dân. Ông có thể giải thích tại sao phải có hai loại Phiếu lý lịch tư pháp?
- Nội dung Phiếu số 1 là về án tích của một cá nhân nên nếu các án tích đã xóa thì sẽ không được ghi nhận trong phiếu số 1. Còn Phiếu số 2 thì ghi toàn bộ các án tích của một cá nhân nên chỉ qui định cấp trong 2 trường hợp (theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng để phục vụ cho hoạt động tố tụng hoặc trong trường hợp công dân muốn biết rõ về lý lịch tư pháp của mình), chứ không nhằm phục vụ cho các mục đích khác như Phiếu số 1. Quy định như vậy để đảm bảo tính nhân văn, nhân đạo đối với công dân.
Thời gian qua, do chưa hiểu quy định của Luật Lý lịch tư pháp nên một số cơ quan đại diện nước ngoài (các đại sứ quán), tổ chức quốc tế ở Việt Nam và cả một số doanh nghiệp trong nước đã yêu cầu công dân Việt Nam phải bổ sung Phiếu lý lịch tư pháp số 2 vào hồ sơ làm thủ tục xuất cảnh hoặc định cư ở nước ngoài.
Yêu cầu này là không đúng tinh thần của Luật Lý lịch tư pháp và gây bất lợi cho công dân Việt Nam. Vấn đề này liên quan trực tiếp đến việc triển khai Luật Lý lịch tư pháp gần 3 năm qua và là một trong những vấn đề phát sinh trong quá trình thực thi Luật.
- Vậy, Bộ Tư pháp xử lý vấn đề này như thế nào?
- Chúng tôi đã phối hợp với Cục lãnh sự (Bộ Ngoại giao) tiến hành một số hoạt động nhất định để xử lý vấn đề này. Cụ thể, Bộ Tư pháp đã chuyển cho Cục Lãnh sự một số mẫu Phiếu số 1 để giới thiệu cho các Đại sứ quán, tổ chức quốc tế tại Việt Nam nhằm giúp họ hiểu tinh thần của Luật, chấm dứt đề nghị công dân Việt Nam bổ sung Phiếu số 2 khi có làm thủ tục xuất cảnh hoặc định cư.
Và theo đề nghị của Bộ Tư pháp, Cục Lãnh sự cũng đã có công hàm gửi đến các nước có đại sứ quán đã và đang yêu cầu công dân Việt Nam bổ sung Phiếu số 2 để đề nghị chỉ yêu cầu Phiếu số 1 trong hồ sơ của công dân Việt Nam làm thủ tục xuất cảnh sang hoặc định cư tại các nước này.
Nếu các đại sứ quán chưa thống nhất về vấn đề này thì chúng tôi sẽ tiếp tục cùng Bộ Ngoại giao có những động thái tiếp theo để chính thức giải thích, đảm bảo việc thực thi đúng Luật Lý lịch tư pháp.
- Theo quy định, việc xin cấp Phiếu số 2 phải trực tiếp, không được ủy quyền cho người khác. Mới đây, Sở Tư pháp TP.Hồ Chí Minh đã triển khai mô hình nhận hồ sơ cho người yêu cầu cấp Phiếu số 2 qua bưu điện. Tuy không đúng quy định của pháp luật nhưng mô hình này lại tạo thuận lợi trong giải quyết thủ tục cho người dân. Quan điểm của Bộ Tư pháp về vấn đề này như thế nào, thưa ông?
- Điều 46 khoản 2 quy định Phiếu số 2 được cấp theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng và nếu cá nhân muốn biết rõ về lý lịch tư pháp của mình nên pháp luật không cho ủy quyền xin cấp Phiếu số 2. Điều này hoàn toàn ngược lại với yêu cầu cấp Phiếu số 1 được ủy quyền, thậm chí không nhất thiết phải ủy quyền thì người thân thích (cha, mẹ, anh, em, con, vợ, chồng…) cũng có thể thực hiện yêu cầu cấp Phiếu số 1 hộ.
Việc Sở Tư pháp TP.Hồ Chí Minh chấp nhận hồ sơ cấp Phiếu số 2 qua đường bưu điện là do lượng người có yêu cầu ngày càng tăng. Cách làm này tạo điều kiện cho người dân song như tôi đã giải thích, Luật Lý lịch tư pháp không qui định như vậy.
Do đó, Bộ đang chỉ đạo Sở Tư pháp TP.Hồ Chí Minh báo cáo về tình hình này và thực hiện đúng tinh thần của Luật Lý lịch tư pháp. Quan trọng nhất là Bộ song song xử lý từ “gốc” của vấn đề bằng cách phối hợp cùng Bộ Ngoại giao giải quyết tình trạng các cơ quan đại diện nước ngoài, tổ chức quốc tế tại Việt nam yêu cầu công dân Việt Nam bổ sung Phiếu số 2.
Vấn đề này được giải quyết sẽ liên hệ được việc của Sở Tư pháp TP.Hồ Chí Minh. Chúng tôi sẽ cố gắng xử lý trong thời gian tới với mục đích đảm bảo cho Luật Lý lịch tư pháp được thực hiện đúng và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân trong các công việc liên quan đến Phiếu lý lịch tư pháp.
3. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Khám sức khỏe trước cưới - đôi ngả băn khoăn. Bài báo phản ánh: Nhiều lần lấy ý kiến nhưng Ban soạn thảo Luật HN-GĐ sửa đổi bổ sung đã không đưa quy định khám sức khỏe tiền hôn nhân vào Luật. Tuy nhiên, với những chuyên gia pháp lý của hai đạo luật về hôn nhân – gia đình và dân số, điều đó không có nghĩa là sự cân nhắc “khuyến khích hay bắt buộc” về vấn đề này đã dừng lại…
Không chính xác khi nói rằng, trước nay chưa có văn bản đề cập tới vấn đề khám sức khỏe tiền hôn nhân. Ngược lại đã có tương đối nhiều luật, chính sách nhắc tới vấn đề này. Đơn cử như Khoản 1, Điều 23 Pháp lệnh Dân số; Điều 25 Nghị định số 104/2003/NĐ-CP; Quyết định 05/QĐ-BYT ngày 7/1/2011 của Bộ Y tế…, nhưng tất cả đều dừng lại ở ngưỡng khuyến khích, động viên.
Tuy nhiên, từ thực tế nhiều người dân và cả ngành y tế không mặn mà với việc này (tại Cao Bằng năm 2011 chỉ có 6 cặp chuẩn bị kết hôn đi khám, năm 2012 không có ai, vì người đi khám phải mất phí, khám lẫn với người bệnh), nên các nhà làm luật đã cân nhắc tới vấn đề cần “xiết” bằng luật để đảm bảo sự thực thi với cả người dân lẫn y tế.
Khi sửa đổi Luật HN-GĐ, Bộ Tư pháp đưa ra ra hướng để lựa chọn là nên giữ nguyên quy định không đòi hỏi người kết hôn phải có giấy chứng nhận sức khỏe vì gây phiền hà, tốn kém cho người dân hoặc phải có giấy chứng nhận sức khỏe để đảm bảo mục đích của kết hôn là xây dựng gia đình hạnh phúc, khỏe mạnh. Sau nhiều lần bàn bạc, Bộ Tư pháp đã nhất trí không đưa vấn đề này vào trong dự thảo, trước mắt chỉ nên tuyên truyền, khuyến khích người dân thực hiện, để tiến tới việc luật hóa sau này.
Vấn đề này lại một lần nữa được xới xáo khi Luật Dân số bắt đầu được xây dựng. Tuy nhiên, cũng như đồng nghiệp, các chuyên gia của Tổng cục DS-KHHGĐ, Bộ Y tế lại “đứng” trước đôi đường “khuyến khích” hay “bắt buộc”.
Khuyến khích thì là công việc xưa nay đã có, đã làm, còn nếu bắt buộc thì có rất nhiều vấn đề cần được luật hóa như: Các nội dung chủ yếu quy định về quy trình, nội dung tư vấn, khám sức khỏe tiền hôn nhân; nhu cầu và điều kiện của nam, nữ được tư vấn, khám sức khỏe tiền hôn nhân; điều kiện và trách nhiệm của cơ sở dịch vụ y tế để thực hiện tư vấn, khám sức khỏe tiền hôn nhân…
Bên cạnh đó, một trong những lý do người dân e ngại việc khám sức khỏe tiền hôn nhân là những bí mật về bệnh tật của họ sẽ bị lộ. Vậy nếu như việc khám sức khỏe tiền hôn nhân được luật hóa, thì chế tài nào sẽ đảm bảm cho tính bảo mật thông tin liên quan đến sức khỏe khách hàng?. Trong khi thực tế cho thấy, những tiết lộ về kết quả xét nghiệm HIV đã nhiều lần bị lộ ra từ cơ sở y tế, khiến nhiều nạn nhân khốn khổ.
II- THÔNG TIN KHÁC
1. Trang Giadinh.net.vn có bài Bộ Nội vụ: Phân biệt bằng cấp là phạm luật. Bài báo phản ánh: Đây là một nội dung trong báo cáo của Bộ Nội vụ tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính – cải cách chế độ công vụ, công chức, ban hành hôm 26/7.
Bộ này cho biết, hiện nay việc tuyển dụng công chức, viên chức được phân cấp cho các bộ, ngành, địa phương. Tuy nhiên, một số nơi còn thực hiện chưa nghiêm quy định của pháp luật về công tác tuyển dụng, như phân biệt văn bằng, chứng chỉ và loại hình đào tạo trong tuyển dụng (ví dụ như tỉnh Nam Định), chất lượng tuyển dụng chưa được đảm bảo. Bộ Nội vụ đã có văn bản nhắc nhở, yêu cầu thực hiện đúng quy định nhưng có những bộ, ngành, địa phương không tiếp thu, vẫn thực hiện không đúng các quy định của pháp luật, gây nên nhiều bức xúc trong dư luận xã hội.
Về kết quả cải cách hành chính, Bộ Nội vụ cho hay, đến nay vẫn còn một số bộ, ngành chưa ban hành kế hoạch cải cách hành chính 2013, một số đề án, dự án chưa được triển khai có hiệu quả. Công tác soạn thảo và ban hành một số văn bản của một số bộ, ngành chưa được quan tâm đúng mức nên đã dẫn đến một số văn bản không thể áp dụng ngay được, tiến độ còn chậm. Thậm chí, theo Bộ Nội vụ, có Bộ còn chưa trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính đối với những thủ tục đã được rà soát, làm ảnh hưởng chung tới tiến độ rà soát và đơn giản hóa các thủ tục hành chính là công tác trọng tâm năm 2013.
Báo cáo còn cho thấy, nhiều bộ, ngành, địa phương chưa chủ động, tích cực trong việc tổ chức triển khai một số nội dung, chủ trương đổi mới để đẩy mạnh chế độ công vụ, công chức như việc tổ chức thi tuyển bằng phần mềm trên máy tính, triển khai xác định vị trí việc làm và cơ cấu công chức, viên chức; xây dựng và hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn chức danh ngạch công chức; tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp của viên chức…
Dự kiến, trong tháng 9, Bộ Nội vụ sẽ trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định về chính sách tinh giản biên chế.
2. Báo Tin tức có bài Phải có lý do rõ ràng khi từ chối xác nhận phục vụ 'gói 30.000 tỷ'. Bài báo phản ánh: Bộ Xây dựng cho biết hiện đã nhận được nhiều phản ánh của cả người dân, ngân hàng lẫn doanh nghiệp về các thủ tục hành chính liên quan đến việc xác nhận hộ khẩu, thực trạng nhà ở, chuyển đổi công năng dự án... trong phục vụ giải ngân gói tín dụng ưu đãi 30.000 tỷ đồng của Chính phủ.
Hiện các thủ tục xác nhận dành cho đối tượng mua nhà thu nhập thấp đã rõ ràng nhưng vướng mắc lại tới với hộ dân mua nhà thương mại có diện tích không quá 70m2 và giá bán dưới 15 triệu đồng/m2.
Theo quy định, để được vay vốn, các đối tượng này cũng phải có văn bản xác nhận của Ủy ban nhân dân (UBND) xã (phường) nơi họ có hộ khẩu thường trú hoặc đăng ký tạm trú xác nhận về hộ khẩu và thực trạng nhà ở. Tuy nhiên, nhiều hộ dân cho biết, khi đi làm thủ tục này, họ đã bị UBND xã (phường) nơi họ có hộ khẩu thường trú hoặc đăng ký tạm trú từ chối thực hiện xác nhận về hộ khẩu và thực trạng nhà ở. Việc này đã ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân vì theo quy định họ sẽ không còn đủ điều kiện để được vay vốn hỗ trợ nhà ở từ gói tín dụng 30.000 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp cũng kêu ca về việc chậm triển khai, phê duyệt chuyển đổi công năng dự án nhà ở thương mại sang dự án nhà ở xã hội tại địa phương gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc tiếp cận nguồn vốn hỗ trợ và tiến độ thực hiện dự án.
Trước thực tế này, Bộ Xây dựng yêu cầu UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có văn bản chỉ đạo, hướng dẫn UBND xã (phường) tổ chức thực hiện việc xác nhận hộ khẩu và thực trạng nhà ở theo quy định tại Thông tư số 07/2013/TT-BXD. Quan điểm là không để trường hợp người dân đến nhưng không được xác nhận mà không có lý do - Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Trần Nam khẳng định.
Theo đó, UBND xã (phường) phải có trách nhiệm xác nhận thực trạng nhà ở (số thành viên trong hộ gia đình và diện tích nhà ở) tại địa chỉ mà người xin xác nhận có đăng ký hộ khẩu thường trú hoặc tạm trú và thực tế đang sinh sống tại đó. Người đứng đơn xin xác nhận về thực trạng nhà ở phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, nếu đã có nhà ở khác trong địa giới hành chính của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có dự án nhà ở mà người đứng đơn muốn vay vốn để thuê, mua nhà ở.
Để nhanh chóng bổ sung quỹ nhà ở phục vụ người có thu nhập thấp, các địa phương cần ban hành những quy định cụ thể nhằm giảm thiểu các thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian chuyển đổi công năng dự án nhà ở thương mại sang dự án nhà ở xã hội theo quy định.