Điểm tin báo chí sáng ngày 23 tháng 7 năm 2013

23/07/2013
Trong ngày 22/7 và đầu giờ sáng ngày 23/7/2013, một số báo đã có bài phản ánh những thông tin liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Cảnh cáo trưởng THA huyện Phú Quốc. Bài báo phản ánh: Ngày 22-7, ông Huỳnh Văn Tam, Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự (THADS) tỉnh Kiên Giang, cho biết:

Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy Phú Quốc vừa ra quyết định kỷ luật cảnh cáo về mặt Đảng đối với ông Đinh Xuân Định (Chi cục trưởng Chi cục THADS huyện Phú Quốc). Lý do là ông Định có sai phạm trong việc giải quyết khiếu nại trong khi thi hành bản án buộc ông Lê Văn Thắng ở địa phương này tháo dỡ các công trình trên đất để giao cho người khác.

Liên quan đến vụ THA này, Cục Điều tra VKSND Tối cao đã khởi tố chấp hành viên Đặng Thị Lượng về tội ra quyết định trái pháp luật.

Như đã thông tin, sau khi án phúc thẩm (yêu cầu ông Thắng tháo dỡ các công trình trên đất) có hiệu lực, cơ quan THA đã cưỡng chế, đốn hạ luôn cây trồng trên đất ông Thắng. Khi ông Thắng khiếu nại thì THA huyện Phú Quốc không báo cáo về trên; để tài sản THA ngoài trời... Cuối năm 2012, THA tỉnh Kiên Giang đã kết luận, cho rằng chấp hành viên không làm tròn nhiệm vụ; có những sai phạm nghiêm trọng, gây thiệt hại đến tài sản của đương sự. Còn ông Định không tuân thủ các nguyên tắc quản lý để chỉ đạo thi hành đúng nội dung các bản án; không kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở chấp hành viên tuân thủ các quy định; ký duyệt kế hoạch cưỡng chế sai của chấp hành viên; dùng tài sản của đương sự bị cưỡng chế làm nhà giữ xe đơn vị trái pháp luật...

Cục Điều tra VKSND Tối cao cũng đang làm rõ vai trò, trách nhiệm của ông Định do ký một số văn bản liên quan đến vụ THA trên đất của ông Thắng và đang bị Cục THADS tỉnh kiểm tra theo đơn tố cáo về vụ việc khác.

2. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài Đắk Lắk: Nhà chánh án “đè” nhà dân. Bài báo phản ánh: Bị tố cáo về hành vi chiếm dụng đất của dân, bà Nguyễn Thị Bình - cán bộ Sở Tư pháp tỉnh Đắk Lắk - nhận lỗi, nhưng không chịu bồi thường hoặc phá bỏ phần lấn chiếm, buộc người dân phải kiện ra tòa. Tòa nhận hồ sơ nhưng “ngâm” đó, không giải quyết dứt điểm, “giúp” bà Bình xây hoàn tất căn nhà ba tầng cho con trai. Chồng bà ta chắc cũng biết rõ việc...

Báo CATP nhận được đơn cầu cứu của vợ chồng ông Trần Minh Tuấn (SN 1972) và Lê Thị Thục Hiền (SN 1975, trú số 230 đường Lý Thường Kiệt, TP. Buôn Ma Thuột) nội dung như sau: Gia đình họ có căn nhà cấp 4 tại địa chỉ trên. Bề ngang mặt tiền 7,08m, chiều dài 7,09m. Do căn nhà đã cũ nát, năm 2012 họ dỡ bỏ để xây nhà mới, phần móng nhà cũ để lại nguyên. Sát bên nhà họ là nền đất căn nhà số 228 Lý Thường Kiệt của bà Nguyễn Thị Bình, có chồng là ông Nguyễn Văn Úy - Chánh án TAND tỉnh Đắk Nông. Cùng lúc hộ ông Tuấn tháo dỡ nhà cũ, vợ chồng bà Bình cũng xây nhà mới. Nghĩ rằng cán bộ xây nhà, đời nào lèm nhèm phần đất nhà mình, vả lại phần trụ móng - ranh giới hai mảnh đất ông Tuấn còn để lại nguyên nên gia đình ông không qua lại phần đất của mình, chờ ngày tốt mới tiến hành khởi công. Sau đó ông Tuấn nghe hàng xóm báo hộ bà Bình cho người phá bỏ trụ bê-tông, đào luôn cả móng nhà, lấn sâu sang phần đất của nhà ông, chiếm đất mặt tiền chừng 20cm, phía sau 40cm. “Tấc đất tấc vàng”, nhất là với căn nhà ngay trung tâm thành phố, ông Tuấn bất bình nên tìm gặp bà Bình nói chuyện. Bà này bỏ mặc ngoài tai, buộc ông Tuấn phải báo với chính quyền nhờ can thiệp.

 Ngày 6-7-2012, UBND phường Thắng Lợi, TP. Buôn Ma Thuột lập đoàn kiểm tra, xác nhận có việc lấn chiếm này. Ngày 13-7-2012, ông Huỳnh Thanh Hương - Phó chủ tịch phường Thắng Lợi - tiến hành hòa giải để giải quyết sự việc theo thẩm quyền. Tại buổi hòa giải, bà Bình nhận lỗi về việc đã đào mất phần móng nhà của ông Tuấn, thế nhưng không chịu khắc phục. Cuộc hòa giải bất thành. Bà Bình tiếp tục cho thợ xây nhà. Vợ chồng ông Tuấn gửi đơn kiện bà Bình lấn chiếm đất đến TAND TP. Buôn Ma Thuột. Thẩm phán Trần Anh Tuấn nhận hồ sơ vụ án, cả thời gian dài sau mới tiến hành đo đạc, mãi đến tháng 7-2013 mới gọi vợ chồng ông Tuấn và bà Bình đến tòa hòa giải lần thứ nhất. Bà Bình không đến tòa mà ủy quyền cho con trai. Cậu này khẳng định làm nhà đúng theo sổ đỏ. Suốt một năm qua, trong khi thẩm phán Tuấn chậm trễ giải quyết vụ kiện, bà Bình đã xây hoàn tất căn nhà ba tầng khang trang.

Xác minh đơn thư cùng toàn bộ tài liệu chứng cứ, chúng tôi ghi nhận diễn biến sự việc trên đây là đúng. Vợ chồng ông Tuấn bức xúc: là người dân, chúng tôi luôn chấp hành nghiêm chỉnh mọi quy định của pháp luật. Thế nhưng, hộ bà Bình ỷ là công chức, có chồng làm “quan to” nên coi thường người dân, bất chấp luật pháp và đạo đức xã hội. Gia đình bà Bình đã vi phạm, làm sai lệch giấy tờ nhà đất để lấn chiếm đất ở của chúng tôi, khiến chúng tôi phải chịu thiệt thòi, cảm thấy bị chèn ép, vô cùng bức xúc. Đề nghị các cơ quan pháp luật giải quyết vụ việc công minh. Vợ chồng bà Hiền cho biết sẽ kiện bà Bình đến cơ quan công an về hành vi làm giả giấy tờ.

3. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Nhiều nhà đầu tư không đủ kiên nhẫn với thủ tục hành chính. Bài báo phản ánh: Kết quả đánh giá sơ bộ thực trạng thủ tục hành chính (TTHC) trong thực hiện dự án đầu tư cảnh báo “nhiều nhà đầu tư không đủ kiên nhẫn nên dễ nản lòng từ bỏ ý tưởng đầu tư chỉ vì qui trình thực hiện TTHC của các dự án rất phức tạp và mất nhiều thời gian…”.

Nhận định chung của các chuyên gia và cả các nhà đầu tư đều cho rằng, “thời gian thực hiện TTHC quá dài sẽ làm mất đi cơ hội đầu tư do chưa đựng nhiều rủi ro, làm tăng chi phí của dự án, làm cho các tính toàn về hiệu quả kinh tế của nhà đầu tư có nhiều sai số và không thể dự báo được hiệu quả của hoạt động đầu tư”.

Với số lượng rất lớn TTHC phải thực hiện khiến thời gian hoàn thành các TTHC kể từ khi có ý tưởng đến khi dự án đi vào vận hành thường kéo dài hơn bình thường. Có những dự án phải mất đến 10 năm mà nhà đầu tư vẫn phải loay hoay với “mớ” thủ tục.

Ngay cả những dự án đầu tư xây dựng cơ bản của các cơ quan nhà nước muốn triển khai được cũng cần đến 42 tháng (dự án nhóm A), 29 tháng (dự án nhóm B) và 23 tháng (dự án nhóm C). Ông Nguyễn Tiến Hưng, Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch tài chính – Bộ Tư pháp, cho rằng, qui trình như vậy “gây lãng phí cho ngân sách nhà nước và nhiều vấn đề khác, khiến nhà đầu tư mất rất nhiều thời gian mà nguyên nhân là do có nhiều luật và văn bản hướng dẫn qui định cho việc tiến hành một dự án đầu tư”.

Thủ tục thì rối rắm như vậy, nhưng theo Cục Kiểm soát TTHC (Bộ Tư pháp), cho đến này  vẫn chưa có một qui trình thống nhất, từ khâu chuẩn bị đầu tư đến lúc vận hành dự án. Thế nên trên thực tế đang có đến 39 qui trình khác nhau của 39 địa phương... khiến các nhà đầu tư “hoang mang” khi lựa chọn địa phương làm địa bàn đầu tư.

Có nhiều thủ tục sự chồng chéo, trùng lặp về mục tiêu, nội dung quản lý và cơ quan thực hiện. Đặc biệt, xuất hiện nhiều TTHC “con” trong quá trình thực hiện nên khiến tình hình càng thêm phức tạp, mơ hồ. Đã có nhà đầu tư phải chi 10-20% vốn đầu tư để làm thủ tục nên đã từ bỏ ý định đầu tư ở Việt Nam.

“Các qui định về đầu tư hiện nay đang giao thẩm quyền và chức năng, nhiệm vụ cho quá nhiều đầu mối, chưa phân cấp rõ ràng giữa các cơ quan TƯ và địa phương nên khi thực hiện, mỗi cơ quan, đơn vị có hướng dẫn riêng, không khâu nối được toàn bộ qui trình” – ông Phạm Tuấn Khôi, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế - Bộ Tài chính, nhận định.

Như thủ tục giới thiệu địa điểm đầu tư, mỗi văn bản pháp luật có hướng dẫn về cơ quan đầu mối khác nhau nên các địa phương cũng giao cho các cơ quan khác nhau thực hiện: Sở KHĐT (12 tỉnh), Sở TNMT (7 tỉnh), Sở Xây dựng (22 tỉnh) và ở một số tỉnh, Sở KHĐT và Sở Xây dựng đều có thể là cơ quan đầu mối…

4. Báo Nông nghiệp Việt Nam có bài Những ngôi làng "bên lề" đời sống: Làng không giấy tờ tùy thân. Bài báo phản ánh: Không điện, không trường, không trạm y tế, xa lạ với hộ khẩu, chứng minh thư nhân dân, giấy đăng ký kết hôn... Cuộc sống của họ phần lớn dựa vào thiên nhiên, vì thế mà bấp bênh, bộn bề khó khăn! Đó là cuộc sống của hơn 200 hộ dân, ngót 1.000 con người ở thôn Bình Lợi (xã Cư M’lan, huyện Ea Súp, Đắk Lắk).

Được biết, ở Bình Lợi hiện có chừng 300 nóc nhà, tất cả đều nằm trong diện nghèo. Trong số này có khoảng hơn 100 hộ mới đến từ khoảng 2 năm nay nên không có gì ngoài căn lều làm chỗ chui ra chui vào. Hằng ngày, họ mưu sinh bằng cách đi thuê đất để canh tác. Cây trồng chủ yếu là lúa và đậu đen.

Mãi đến năm 2011, chính quyền địa phương mới làm được con đường cấp phối dẫn vào làng, giảm đáng kể sự khó khăn, cách trở trong việc đi lại. Cũng từ đây, làng mới có tên chính thức là thôn Bình Lợi.

Theo già làng Sùng Nam, cái tên thôn này do bà con đặt với mong muốn sẽ được bình an và cuộc sống ngày càng tốt hơn. Nhưng dù đã là một đơn vị hành chính của xã, nhưng người dân ở đây vẫn không được đăng ký hộ khẩu.

Toàn bộ diện tích thôn Bình Lợi thuộc tiểu khu 271, do Công ty Lâm nghiệp Cư M’Lanh quản lý. “Nguyên nhân xã không chịu làm giấy tờ tùy thân cho bà con, là vì mọi người không chịu trả lại mảnh đất đã khai phá bao năm nay cho chính quyền để chuyển đến khu quy hoạch mới”, ông Xứng bảo.

Chuyện lấy vợ phải đăng ký kết hôn, đó là việc hiển nhiên. Nhưng, với người dân ở thôn Bình Lợi thì không. Nhiều người đã có cả đàn con 4 - 5 đứa nhưng chưa biết, chưa nghe đến cụm từ “đăng ký kết hôn” bao giờ. Chẳng đứa con nào có giấy khai sinh.

5. Báo Người Lao động có bài Chịu thua nạn giật hụi?. Bài báo phản ánh: Vỡ hụi quy mô lớn xảy ra liên tục ở khắp nơi nhưng luật có những bất cập, sơ hở khiến nạn nhân luôn bị thiệt thòi, còn kẻ giật hụi thì vẫn cứ nhởn nhơ

Thực tế, điều 479 Bộ Luật Hình sự (BLHS) có quy định về hụi, họ, biêu, phường nhưng còn rất sơ sài. Văn bản dưới luật có Nghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27-11-2006 hướng dẫn và đó cũng chỉ là các chế định về trách nhiệm dân sự trong giao dịch này. Còn văn bản quy định cụ thể cách xử lý các vụ việc liên quan đến hụi có dấu hiệu hình sự thì chưa có. Đối với các vụ vỡ hụi lớn, chủ hụi không có khả năng chi trả thường bị khởi tố về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điều 140 BLHS, trong đó dấu hiệu bắt buộc phải là bỏ trốn sau khi chiếm đoạt tiền. Tuy nhiên, các yếu tố cấu thành tội phạm này đối với chủ hụi thường rất yếu. Một phần do chủ hụi và hụi viên đều thỏa thuận với nhau bằng miệng, khi xảy ra vỡ hụi không có giấy tờ, biên lai chứng minh. Chưa kể, khi vỡ hụi, chủ hụi hứa hẹn sẽ hoàn trả và không thể hiện ý định bỏ trốn. Vì thế, các cơ quan pháp luật không đủ cơ sở để xử lý hình sự mà chỉ xem đó là giao dịch dân sự.

Đối với việc xác định hành vi có dấu hiệu của tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, phải chứng minh được chủ hụi có dấu hiệu lừa dối ngay từ đầu để chiếm đoạt tài sản mới có thể khởi tố theo điều 139 BLHS. Trong thực tế, ít có cơ sở xác định ngay từ đầu chủ hụi đã có dấu hiệu gian dối.

Nếu nạn nhân khởi kiện dân sự, quá trình xử lý cũng nhiều khó khăn, đặc biệt là vấn đề lãi suất. Bởi khác với cho vay trong hợp đồng vay tài sản (do người vay áp đặt lãi suất), lãi suất trong hụi họ do người đi vay tự nguyện đặt ra. Khi giải quyết, nếu tính lãi suất theo điều 476 Bộ Luật Dân sự, nhiều trường hợp lại gây thiệt hại cho những người cho vay khác, trong khi việc quy định lãi suất là sự tự nguyện, có sự thống nhất giữa các thành viên tham gia hụi. Từ đó, một số người lợi dụng bỏ lãi cao để hốt hụi, sau đó không thực hiện nghĩa vụ đóng hụi chết và nếu những người bị vi phạm đi kiện thì chính người bỏ lãi lại có lợi bởi lúc đó tòa án giải quyết theo mức lãi quy định ở điều 476 này.

Với nhiều nạn nhân, số tiền bị giật hụi có khi là cả gia tài hoặc vay mượn nhiều người khác, việc bị chiếm đoạt tiền đã gây cho họ hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Đứng trước việc này, nạn nhân cần tập trung các chứng cứ chứng minh được họ có tham gia dây hụi với người chủ hụi và các thành viên khác, ít nhất là các chứng cứ bằng giấy tờ thể hiện giao dịch, xác định cụ thể số tiền đã đóng...

Giải pháp cho tình hình này cần thiết phải xác định giao dịch hụi có bản chất là ngành kinh doanh có lãi, không đơn thuần chỉ tương trợ nhau của một nhóm người. Cần xác định lãi suất ở mức độ phù hợp với thông lệ chứ không thể theo quy định tại điều 476 Bộ Luật Dân sự, bởi quá thấp sẽ không khả thi, trong khi xã hội không thể không có giao dịch này.

Ngoài ra, nhà nước cần quản lý chặt chẽ hơn đối với hoạt động hụi qua thủ tục đăng ký và nộp phí đối với loại giao dịch hụi có lãi. Phải có chế tài khi vi phạm các hoạt động của hụi để răn đe và phòng ngừa chung, đồng thời xử lý rất cụ thể các trường hợp vi phạm, tránh sự lách luật gây thiệt hại cho cộng đồng. Quy mô của dây hụi từ 10 người trở lên với mức đóng 2 triệu đồng/tháng phải có văn bản xác nhận với nhau; dây hụi từ 20 người trở lên với mức đóng 10 triệu đồng/tháng phải công chứng.

II- THÔNG TIN KHÁC

Báo Pháp luật Việt Nam có bài Tồn đọng hàng trăm bị án tử hình. Bài báo phản ánh: VKSNDTC chiều qua tổ chức họp báo về công tác kiểm sát 6 tháng đầu năm 2013 và một số nhiệm vụ trọng tâm đến hết năm 2013 cũng như việc triển khai thực hiện Nghị quyết 37/2012/QH13 ngày 23/11/2013 về công tác tư pháp năm 2013.

Theo đó, trong 6 tháng qua, ngành Kiểm sát đã quán triệt các chủ trương về cải cách tư pháp; hạn chế mức thấp nhất oan sai và bỏ lọt tội phạm; kịp thời phát hiện các sai phạm trong hoạt động tố tụng; quyết liệt với các loại tội phạm về tham nhũng, chức vụ..

Trả lời câu hỏi của báo giới liên quan đến việc thi hành án tử hình bằng tiêm thuốc độc, đại diện lãnh đạo VKSNDTC cho biết, hiện tồn đọng hàng trăm bị án tử hình và điểm khó khăn nhất chính là thuốc thi hành án. Mặc dù Viện trưởng VKSNDTC Nguyễn Hòa Bình từng tiên lượng hạn chót tại phiên trả lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội kỳ họp vừa qua là ngày 27/6 song đến nay các cơ quan chức năng chưa xử lý được vấn đề.

Đại diện VKSNDTC thông tin thêm, Bộ Công an đã đề xuất phương án cho tiến hành song song hai cách thức thi hành án tử hình nhưng Quốc hội chưa có ý kiến nên “hiện tại thi hành án tử hình bằng tiêm thuốc vẫn chưa thể áp dụng ngay”.



File đính kèm