Điểm tin báo chí sáng ngày 10 tháng 7 năm 2013

10/07/2013
Trong ngày 09/7 và đầu giờ sáng ngày 10/7/2013, một số báo đã có bài phản ánh những thông nổi bật và thông tin liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN NỔI BẬT

Báo An ninh Thủ đô đưa tin Khai mạc phiên họp thứ 19 Thường vụ Quốc hội. Hôm nay, 10-7, phiên họp thứ 19 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) khai mạc tại Hà Nội. Nội dung chính của phiên họp lần này là xem xét các dự án luật. 

Cụ thể, UBTVQH sẽ cho ý kiến về Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ; dự án Luật đấu thầu (sửa đổi); dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng cháy, chữa cháy; dự án Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí (sửa đổi)... Cũng tại phiên họp này, UBTVQH dự kiến sẽ xem xét thông qua Đề án đổi mới Văn phòng Quốc hội. Trong ngày làm việc đầu tiên, 10-7, sau phát biểu khai mạc của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, UBTVQH sẽ đánh giá kết quả kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIII cho ý kiến bước đầu về việc chuẩn bị kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII.

II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Tuổi trẻ Online có bài Thi hành án Phú Yên lên tiếng vụ cụ bà 83 tuổi tự thiêu. Bài báo phản ánh: Chiều 8-7, để tìm hiểu rõ hơn việc thi hành các bản án liên quan đến gia đình cụ Nguyễn Thị Bương, chúng tôi đã liên hệ với ông Nguyễn Kim Đồng, chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hòa. 

Ông Đồng cho biết sáng cùng ngày, ông đã tiếp đoàn công tác của Tổng cục Thi hành án (Bộ Tư pháp) về việc liên quan đến chuyện cụ Bương tự thiêu. Hiện ông không được phép cung cấp thông tin cho báo chí trừ khi có sự chỉ đạo của cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên.

Ngay sau đó, chúng tôi đã liên hệ với ông Hà Công Khánh - cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên. Ông Khánh cho biết ngày 8-7, đoàn công tác của Tổng cục Thi hành án đã làm việc với Huyện ủy, UBND huyện, Viện KSND, Công an, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hòa và UBND xã Hòa Xuân Tây để nắm tình hình và báo cáo tổng cục trưởng, bộ trưởng Bộ Tư pháp để có hướng chỉ đạo phát ngôn chính thức cho báo chí.

Dưới đây là cuộc trao đổi giữa Phóng viên với ông Khánh:

* Từ trước đến nay, cụ Bương có đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hòa khiếu nại hay yêu cầu gặp lãnh đạo chi cục không, thưa ông?

- Việc này hoàn toàn không có.

* Ông có biết việc Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hòa cho rằng ông Lập (con rể cụ Bương) không có điều kiện thi hành án, để ra quyết định trả đơn yêu cầu thi hành án của cụ Bương không? Theo ông, chuyện này có gì bất thường không?

- Việc thực hiện thi hành án của bản án ly hôn giữa bà Giàu và ông Lập là đúng quy trình. Còn việc ông Lập có điều kiện hay không có điều kiện thi hành án, thì bà Giàu (vợ cũ ông Lập) đã có đơn yêu cầu TAND huyện Đông Hòa giải quyết việc chia tài sản sau ly hôn giữa bà và ông Lập, tòa án đang thụ lý xem xét.

* Ông có nghe nói việc ông Lập thách thức không trả 2 chỉ vàng cho cụ Bương không?

- Thông tin này Chi cục Thi hành án dân sự huyện không báo cáo, bên viện KSND cũng không nói gì, mà tôi chỉ có thể nắm được thông tin từ các cơ quan này, nên chưa nghe.

* Ông Trần Công Văn (con trai cụ Bương) nói Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hòa tiến hành cưỡng chế, thu hồi tài sản vợ chồng ông để trả cho Công ty thức ăn Hoa Chen. Trong khi đó, những người nuôi tôm còn nợ vợ chồng ông thì cơ quan thi hành án không tiến hành cưỡng chế thu hồi. Qua làm việc sáng nay, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hòa có đề cập việc này không, thưa ông?

- Sáng nay, làm việc với đoàn công tác của Tổng cục Thi hành án, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hòa không có báo cáo việc này. Đoàn công tác chỉ làm việc những vấn đề liên quan đến cụ Bương, còn vấn đề mà ông Văn nêu đoàn công tác chưa biết nên không đề cập. Vấn đề ông Văn nêu chúng tôi sẽ kiểm tra sau.

* Ông Trần Công Văn nói Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hòa bảo ông ta tự đi điều tra tìm hiểu hoàn cảnh của từng trường hợp người nuôi tôm nợ gia đình ông ta và tự làm đơn mang đến xã xác nhận, sau đó chi cục mới tiến hành thi hành án. Ông có nghe việc này không?

- Về nguyên tắc, chúng tôi không thể chỉ đạo Chi cục Thi hành án huyện Đông Hòa báo cáo tất cả những vụ việc không có liên quan đến cụ Bương trong thời điểm này. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ kiểm tra vấn đề mà ông Văn đã nêu.

* Nhiều người nói rằng cái chết của cụ Bương có liên quan đến việc thi hành các bản án của gia đình cụ. Ý kiến của ông về việc này như thế nào?

- Thật sự mà nói, thời gian qua báo chí nêu cái chết của cụ Bương có liên quan đến thi hành án, chúng tôi cũng rất bức xúc và muốn sớm làm rõ nguyên nhân. Nhưng hiện chưa có một cơ quan nào dám khẳng định tại sao cụ Bương tự thiêu. Trong buổi làm việc sáng nay, Huyện ủy, UBND huyện Đông Hòa chỉ đạo gắt gao cho công an điều tra để xác định nguyên nhân. Chúng tôi đang chờ kết luận từ cơ quan điều tra.

2. Về vụ việc này, Báo cũng có bài Cụ bà tự thiêu ở sân tòa có bức xúc về thi hành án. Bài báo phản ánh: Con trai của cụ Nguyễn Thị Bương, người tự thiêu tại trụ sở TAND huyện Đông Hòa (Phú Yên) vào sáng 5-7, kể rằng cụ Bương rất bức xúc về việc thi hành án liên quan đến gia đình cụ.

Ngày 8-7, chúng tôi đến nhà cụ Bương tại thôn Phước Lương, xã Hòa Xuân Tây, huyện Đông Hòa đúng lúc người thân đang cúng ba ngày cho cụ. Ông Trần Công Văn, con thứ sáu của cụ Bương, cho biết cụ có 10 người con và ai cũng khổ, vì thế cuối đời bà cụ rất buồn.

Theo ông Văn, cụ Bương có hai chuyện buồn. Chuyện thứ nhất là chuyện bà Trần Thị Giàu (chị ông Văn) ly hôn với ông Nguyễn Văn Lập. TAND huyện Đông Hòa tuyên buộc ông Lập phải trả cho cụ Bương 3 chỉ vàng mà cụ đã cho ông Lập mượn trước đó.

Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hòa đã kê biên một bộ ghế xalông của ông Lập để khấu trừ nợ cho cụ Bương, tương đương 1 chỉ vàng. Ông Lập còn nợ cụ Bương 2 chỉ vàng. Tháng 9-2011, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hòa ra quyết định trả đơn yêu cầu thi hành án của cụ Bương, vì ông Lập không có điều kiện thi hành.

Từ ngày ly dị, theo bà Giàu, ông Lập không chu cấp tiền để bà nuôi các con, lại còn thách thức không chịu trả 2 chỉ vàng cho cụ Bương, trong khi ông Lập và bà có tài sản chung là một ngôi nhà và hồ nuôi tôm.

Chuyện buồn thứ hai là chuyện vợ chồng ông Văn làm ăn thất bại. Vợ chồng ông mở đại lý cho Công ty thức ăn Hoa Chen, một công ty của Trung Quốc có chi nhánh tại VN, bán thức ăn nuôi tôm.

Cuối năm 2011, do tôm bị bệnh chết, nhiều người nuôi không có khả năng trả nợ, dẫn đến vợ chồng ông cũng nợ công ty. Vụ việc được đưa ra TAND huyện Đông Hòa xét xử, tòa buộc vợ chồng ông phải trả cho Hoa Chen 250 triệu đồng.

Ông phải vay mượn người thân 50 triệu đồng, số còn lại không có khả năng trả nên bị Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hòa cưỡng chế, thu hồi tài sản của vợ chồng ông để trả cho Hoa Chen.

“Trong khi đó, những người nuôi tôm còn nợ vợ chồng tôi 700 triệu đồng thì cơ quan thi hành án không cưỡng chế thu hồi. Cơ quan thi hành án rất nhiệt tình đi thu hồi nợ cho Công ty Hoa Chen, còn số tiền mà người khác nợ vợ chồng tôi thì họ bảo tôi tự đi điều tra tìm hiểu hoàn cảnh của từng trường hợp và tự làm đơn mang đến xã xác nhận, sau đó họ mới thi hành án. Tôi là người dân lao động bình thường thì làm sao làm được những việc đó?” - ông Văn nói.

Ông Văn cũng nói thêm: “Trước khi mất, mẹ tôi thường xuyên than vãn cho cuộc sống của chị Giàu và vợ chồng tôi. Bản thân mẹ tôi mang bệnh tiểu đường, không có tiền chạy chữa. Có lần bà nói thật ra các con của bà không phải không có tiền, mà do người khác nợ nên mới ra nông nỗi này. Tại sao khi con bà nợ thì người ta kê biên tịch thu tài sản để trả nợ, còn người khác nợ con bà thì họ lại làm ngơ? Mẹ tôi rất bức xúc về chuyện này”.

3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Luật sư bị làm khó: Chuyện… bình thường?. Bài báo phản ánh: Một luật sư kể một lần được vào tiếp xúc bị can cùng cán bộ điều tra, khi luật sư hỏi thì thấy cán bộ này dẫm chân bị can. Kể từ lúc đó, bị can… từ chối luật sư luôn.

Hai năm sau khi Thông tư 70 của Bộ Công an ra đời, thực trạng bảo đảm quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can vẫn chưa được cải thiện. Luật sư vẫn bị làm khó với hàng loạt “chiêu” oái oăm…

Hai năm trước, Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã vận động thành công để Bộ Công an ra Thông tư 70 quy định chi tiết thi hành BLTTHS liên quan đến bảo đảm quyền bào chữa trong giai đoạn điều tra. Sau đó, VKSND Tối cao cũng ký Quy chế phối hợp với Liên đoàn Luật sư để hỗ trợ nhau thực hiện tốt chức trách.

Trong Thông tư 70, lần đầu tiên ngành công an ràng buộc điều tra viên khi giao quyết định tạm giữ, quyết định khởi tố thì phải giải thích cho người bị tạm giữ, bị can về quyền bào chữa, đồng thời lập biên bản ghi rõ ý kiến của nghi can là có nhờ người bào chữa hay không. Song song đó, ngành công an cũng quy định khá chi tiết về trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa, về việc luật sư gặp thân chủ hay tiếp cận, sao chép hồ sơ vụ án...

Với những nội dung tích cực ấy, Thông tư 70 đã được giới luật sư cả nước vui mừng đón nhận. Nhiều người chủ động sao thành tài liệu, kẹp vào hồ sơ mỗi vụ việc như là “bảo bối” mỗi khi có thân chủ nhờ bảo vệ trong giai đoạn điều tra. Nhưng đến nay, hiệu quả mang lại từ Thông tư 70 và Quy chế phối hợp của VKSND Tối cao - Liên đoàn Luật sư vẫn chưa cao, biểu hiện qua kết quả khảo sát trong giới luật sư do hai luật sư Phan Trung Hoài, Nguyễn Hưng Quang và các đồng nghiệp thực hiện (được giới thiệu ngày 9-7).

Đầu tiên là câu hỏi về mức độ tạo điều kiện của cơ quan tố tụng trước và sau khi có các quy định trên. Câu trả lời của giới luật sư cho thấy có tới hơn 50% cho rằng người bị tạm giữ “không được tạo điều kiện thuận lợi” để nhờ người bào chữa. Tỉ lệ này giảm xuống 27,7% ở giai đoạn điều tra và còn 8,7% ở giai đoạn truy tố và trước khi xét xử. Ở đoạn cuối này, có tới 90% luật sư cho rằng VKS đã “tạo điều kiện thuận lợi” hoặc “thuận lợi vừa phải” cho bị cáo thực hiện quyền mời luật sư.

Kết quả trên cũng được thể hiện rõ hơn qua các buổi tọa đàm. Nhiều luật sư cho biết hầu hết các trường hợp mời họ bảo vệ cho người bị tạm giữ là do thân nhân mời chứ họ không thể tiếp cận với người đang bị cách ly. Một số khác cho biết chưa bao giờ tham gia bào chữa cho người bị tạm giữ vì không được tạo điều kiện trên thực tế.

Thực tiễn tiếp cận quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can cũng được biểu hiện ở con số gần 1/2 số luật sư cho rằng cơ quan điều tra “thỉnh thoảng” mới giải thích cho đương sự về quyền bào chữa. Khoảng 1/3 số luật sư cho rằng cơ quan tố tụng “hiếm khi” hướng dẫn người bị tạm giữ, bị can viết đề nghị nhờ người bào chữa. Hơn 1/2 số luật sư cho biết cơ quan tố tụng “không bao giờ” cung cấp danh sách, thông tin luật sư để đương sự liên lạc. Tuy nhiên, việc này được thực hiện tốt hơn nếu rơi vào các vụ án mà luật bắt buộc phải có người bào chữa.

Mời luật sư bào chữa là quyền căn bản của người rơi vào vòng lao lý. Tuy nhiên, rất nhiều trường hợp cơ quan tố tụng thông báo ra ngoài là người bị tạm giữ, bị can từ chối thực hiện quyền này. Lý do cụ thể với mỗi trường hợp luôn là điều khó lý giải.

Để làm rõ, nhóm khảo sát đã nêu ra các lý do giả thiết và nhận được phản hồi như sau: Gần 59% số luật sư cho rằng điều tra viên không giải thích cho đương sự quyền bào chữa mà tiến hành khám, xét hỏi ngay. Hơn 63% cho rằng điều tra viên khuyên đương sự “không nên”, “không cần” mời luật sư. 46% cho rằng đương sự có yêu cầu điều tra viên trợ giúp tìm luật sư nhưng bị từ chối công khai. Các lý do khách quan khác như không tìm được người bào chữa phù hợp, không có điều kiện tài chính chỉ chiếm khoảng 11%-27% trả lời.

Chính vì vậy, có tới gần 49% số luật sư nói rằng họ “thường xuyên” gặp khó khăn trong thủ tục xin gặp gỡ thân chủ đang bị tạm giam. Thậm chí, 1/3 số được hỏi cho biết họ hoàn toàn không được gặp thân chủ trong giai đoạn điều tra. Tình hình này chỉ được cải thiện khi vụ án đã sang giai đoạn truy tố với 43% số luật sư được hỏi nói rằng họ “thường xuyên” được tạo điều kiện gặp gỡ thân chủ.

4. Báo Người đưa tin có bài Mang thai hộ không phải là đẻ thuê. Bài báo phản ánh: Trên thực tế có những phụ nữ vì nhiều nguyên nhân không thể mang thai nhưng có khả năng nhờ người khác mang thai hộ (MTH) bằng trứng của mình. Thế nhưng pháp luật hiện hành cấm tiệt điều này.

Chị A. bị dị tật bẩm sinh không có âm đạo, không có tử cung nhưng có hai buồng trứng. Chị đến BV phụ sản Trung ương làm phẫu thuật tạo hình thẩm mỹ âm đạo. Sau đó chị lập gia đình, quan hệ tình dục bình thường nhưng không thể có thai vì không có tử cung. Chồng chị là con một. Gia đình chồng nói rằng nếu chị không có con thì phải ly hôn. Chị rất muốn nhờ người khác MTH bằng noãn của chị và tinh trùng của người chồng nhưng không thể thực hiện.

Bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Phượng, nguyên Giám đốc BV Từ Dũ, Chủ tịch Hội Nội tiết sinh sản và vô sinh TP.HCM, tâm sự bà không nhớ hết bao nhiêu trường hợp khát khao mong muốn có một đứa con nhưng đành bất lực. “Có một cô thẩm phán bị u xơ đầy kín tử cung. Cứ mỗi lần cô có thai là bị sẩy thai. Trứng của cô rất tốt, tinh trùng của chồng tốt nhưng không thể nhờ người khác MTH. Do chồng là con trai duy nhất trong gia đình nên cuối cùng cô ấy đành chọn cách ly hôn để chồng có con. Tôi thương đứt ruột mà không biết làm sao can thiệp” - bà Phượng kể.  

Một trường hợp khác, hai vợ chồng là tiến sĩ có uy tín cao, góp nhiều công sức trong việc phát triển thành phố. Họ hết mực yêu thương nhau nhưng cũng vì vợ có bệnh lý ở tử cung nên không thể mang thai. Người chồng rất muốn có một đứa con từ gien của vợ nên nhờ người khác MTH nhưng làm đơn xin hoài không được. Giờ thì họ đã trên 50, vẫn thương yêu nhau nhưng mong muốn lớn nhất là có một đứa con đã không đạt được.

Đối diện với những hoàn cảnh bất hạnh nêu trên. Ngay sau khi Thủ tướng ký ban hành Nghị định 12/2003 nghiêm cấm MTH, bà Phượng đã xin hủy lệnh cấm nhưng không được. Nay dự luật HNGĐ mới nhất đã cho phép MTH vì mục đích nhân đạo. Bà Phượng và các chuyên gia trong ngành y tế mừng vô kể.

Dự luật dự kiến người MTH phải từ đủ 20 tuổi đến 45 tuổi; có đủ sức khỏe để thụ thai, mang thai và sinh đẻ, không mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV/AIDS, bệnh tâm thần, bệnh truyền nhiễm hay các bệnh di truyền khác.

Về quan hệ giữa người mang thai và vợ chồng nhờ mang thai, dự luật đưa ra hai phương án để người dân góp ý lựa chọn. Một là, người mang thai phải là người có quan hệ thân thích với vợ chồng nhờ mang thai. Người thân thích trong trường hợp này được hiểu là người có cùng dòng máu về trực hệ và người có họ trong phạm vi ba đời. Hai là, trong trường hợp không có người thân thích để nhờ mang thai thì vợ chồng có thể nhờ người phụ nữ khác mang thai.

Theo bà Mai Thị Hoa, Phó Chủ tịch Hội Bảo trợ trẻ em TP.HCM, đây là vấn đề quá mới, lần đầu tiên được đưa vào luật nên cần thận trọng. “Phải đặt đứa trẻ làm trung tâm để giải quyết vấn đề. Nếu người ngoài dòng họ mang thai giùm, lỡ đâu khi người kia đang mang thai vài tháng mà cha mẹ đứa trẻ mất thì làm sao? Trong trường hợp này dự luật xác định người mang thai sẽ là mẹ đứa trẻ. Vì không cùng huyết thống nên e rằng người mẹ này sẽ khó lòng yêu thương đứa con, bấy giờ đứa trẻ sẽ là người thiệt thòi nhất”.

Luật sư Huỳnh Minh Vũ ủng hộ quan điểm này. Theo ông Vũ, luật cần dự liệu hết những trường hợp bất trắc xảy ra, trong đó có tình huống người nuôi đứa trẻ không yêu trẻ vì không cùng huyết thống.

Tuy nhiên, rất nhiều ý kiến đề nghị các cơ quan chức năng nên chọn phương án hai để mở rộng cửa cho nhiều người có cơ hội có con. “Với những người không có người thân thích có đủ điều kiện để MTH hoặc người thân thích không muốn MTH, chẳng lẽ họ phải chấp nhận bế tắc hay sao? Chắc gì người trong dòng họ có tình cảm với đứa trẻ bằng người bên ngoài” - bác sĩ Đặng Phi Yến, Trưởng phòng Truyền thông giáo dục, Chi cục Dân số Kế hoạch hóa gia đình TP.HCM, nói.

5. Báo Thanh niên Online có bài 576 cá nhân được nhập quốc tịch VN. Ngày 9.7, UBND TP.HCM tổ chức lễ trao quyết định của Chủ tịch nước cho nhập quốc tịch VN đối với 576 cá nhân. Đây là những người không quốc tịch, đang cư trú trên địa bàn TP, không có đầy đủ giấy tờ về nhân thân nhưng đã cư trú ổn định trên lãnh thổ VN từ 20 năm trở lên tính đến ngày 1.7.2009 (ngày luật Quốc tịch VN hiện hành có hiệu lực) và tuân thủ Hiến pháp, pháp luật VN.

III- THÔNG TIN KHÁC

Báo Pháp luật Việt Nam có bài DN trò chơi trực tuyến phá sản vì luật?. Bài báo phản ánh: Ba năm kể từ khi cơ quan quản lý nhà nước dừng cấp phép trò chơi trực tuyến (game online), hầu hết các doanh nghiệp (DN) game trong nước đều dở sống dở chết. Lợi nhuận từ thị trường game trong nước ồ ạt chảy vào túi các doanh nghiệp game nước ngoài. DN game Việt đang bị loại ngay chính trên sân nhà, hoặc chấp nhận phải vi phạm pháp luật để tồn tại, trong khi cơ quan quản lý nhà nước vẫn đang loay hoay tìm cách quản lý mảng thị trường quan trọng này sao cho “có lý có tình”…

Năm 2005, dịch vụ trò chơi trực tuyến bùng phát mạnh mẽ ở nước ta, được dư luận quan tâm, trong đó đề cập đến mặt trái của loại hình này. Đứng trước yêu cầu quản lý, Bộ Văn hóa – Thông tin, Bộ Bưu chính – Viễn thông, Bộ Công an đã ban hành Thông tư liên tịch số 60/2006/TTLT-BVHTT – BBCVT-BCA ngày 01/6/2006 về quản lý trò chơi trực tuyến.

Từ thời điểm này, trò chơi trực tuyến chính thức được đưa vào quản lý. Theo đó trò chơi trực tuyến cung cấp trên thị trường phải được phê duyệt nội dung, kịch bản và đảm bảo các điều kiện kỹ thuật. Mặc dù đây là lĩnh vực mới, chưa có tiền lệ bao giờ, nhưng những quy định trong Thông tư số 60 đã góp phần quan trọng đưa hoạt động này vào nề nếp.

Đến năm 2009, mới có chế tài xử phạt vi phạm đối với hành vi vi phạm trong hoạt động này, quy định tại Điều 17 Nghị định số 28/2009/NĐ-CP ngày 20/3/2009 của Chính phủ.

Những quy định trên mặc dù đã tạo hành lang pháp lý để hoạt động trò chơi trực tuyến phát triển, song đây là những quy định chung nhất, chưa thể bao quát toàn diện những vấn đề phát sinh trong quá trình phát triển, đặc biệt là những quy định về cách thức thu phí, sự phát triển mở rộng của trò chơi….

Trong quá trình triển khai thực hiện đã nảy sinh bất cập, rõ nét nhất là việc hạn chế giờ chơi, xác định tiêu chí bạo lực.

Cụ thể, biện pháp hạn chế giờ chơi phức tạp, chưa hiệu quả; các đại lý Internet thường hoạt động quá giờ quy định; yêu cầu khai báo thông tin cá nhân của người chơi không được thực hiện nghiêm, chưa có dữ liệu chứng minh thư điện tử để đối chiếu; còn nhiều game không thuộc diện điều chỉnh…

Sau khi Thông tư liên tịch số 60 có hiệu lực, các cơ quan chức năng  đã thực hiện thẩm định về nội dung, kịch bản, về điều kiện kỹ thuật và cấp phép. Sau 04 năm đưa vào quản lý, dư luận vẫn còn nhiều ý kiến trái chiều, vì vậy, Bộ Thông tin và Truyền thông đã tạm dừng hoạt động kiểm định, cấp phép vào năm 2010 để rà soát, đánh giá tình hình.

Và đến thời điểm này, việc cấp phép vẫn hạn chế, chỉ dừng lại ở những thể loại trò chơi mang tính giáo dục, giải trí thuần túy.

Tuy nhiên, việc tạm dừng thẩm định nội dung các game online mới chưa biết đến khi nào cấp lại đã gây khó khăn đến hoạt động kinh doanh của các DN.

Ông Nguyễn Văn Khoa, Giám đốc Cty FPT Online, chia sẻ, “việc cấp phép hoạt động cho trò chơi trực tuyến hiện nay cũng chưa rõ ràng và không được quy định trong các văn bản cụ thể, kể cả Thông tư 60, nên FPT online đang vừa phải đi, vừa phải dò đường”.

Trong 3 năm qua, trên thị trường Việt Nam, hiện số trò chơi trực tuyến  được cấp phép còn đang chơi là 73 trò nhưng số lượng thực tế trên thị trường lên tới hàng trăm, chưa kể game dành cho điện thoại di động có thể truy cập internet.  

Ông Nguyễn Lâm Thanh (Hiệp hội Truyền thông số Việt Nam), cho rằng, cơ quan quản lý chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể cách phân biệt thế nào là game bạo lực, thế nào là game giải trí. Khiến cho giữa “ma trận” các trò chơi đang lưu hành, người chơi cũng chỉ lựa chọn theo cảm tính và theo sự hướng dẫn thiếu chuyên nghiệp hoặc có tính vụ lợi của đại lý game, còn các công ty nội dung số, các công ty cung cấp game hoạt động hợp pháp trong nước không phát triển được các game online mới.

Ông Hoàng Vĩnh Bảo, Cục trưởng Cục Quản lý phát thanh truyền hình và thông tin điện tử (Bộ Thông tin và Truyền thông) cho biết, Bộ này đã có văn bản báo cáo Thủ tướng Chính phủ việc tiếp tục thẩm định và cấp phép theo thẩm quyền đối với trò chơi trực tuyến có nội dung thuần túy giải trí và giáo dục trong khi Chính phủ chưa ban hành văn bản mới thay thế Thông tư 60.

“Bộ cũng đã trình Chính phủ dự thảo Nghị định thay thế Nghị định 97/2008/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin điện tử trên internet. Trong thời gian tới, Nghị định này sẽ sớm được ban hành” – ông Bảo cho biết thêm.



File đính kèm