I- THÔNG TIN NỔI BẬT
1. Báo Dân trí đưa tin: Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu thay mặt UB Thường vụ Quốc hội ký trình Quốc hội xem xét dự kiến điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2013 và 2014.
So với chương trình dự kiến của năm 2013 được Quốc hội quyết định trong kỳ họp trước, đến thời điểm này, UB Thường vụ đề xuất lùi thời hạn trình các dự án Luật hải quan (sửa đổi), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bảo hiểm xã hội, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật dạy nghề, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bảo hiểm y tế, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (sửa đổi), Luật hộ tịch.
Đây không phải lần đầu tiên luật Hộ tịch bị đình lại. Trước đây, tại phiên họp thứ 11 của UB Thường vụ Quốc hội (tháng 9/2012), luật Hộ tịch đã được trình xin ý kiến để đưa ra Quốc hội thảo luận trong kỳ họp cuối năm 2012. Tuy nhiên, sau đó, UB Thường vụ đã yêu cầu cơ quan soạn thảo (Bộ Tư pháp) làm lại luật này vì nhiều vướng mắc chưa được giải quyết thấu đáo.
Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu cho rằng đây là dự án luật liên quan nhiều đến việc quản lý dân cư. Hiện nay, Chính phủ đang chỉ đạo xây dựng Đề án tổng thể đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu liên quan đến quản lý dân cư giai đoạn 2013-2020. Nội dung của Đề án này (trong đó có vấn đề quan trọng là cấp mã số định danh công dân) là cơ sở quan trọng để cải cách công tác quản lý hộ tịch. Với lý do đó, UB Thường vụ Quốc hội đề nghị chưa đưa dự án Luật hộ tịch vào chương trình làm luật cho đến khi nào thông qua xong Đề án mới xem xét, bổ sung thêm.
Ngược lại, chương trình xây dựng luật pháp lệnh năm nay sẽ được bổ sung một số luật như: Luật Việc làm; luật Đầu tư công, mua sắm công; luật Công an nhân dân sửa đổi, Nghị quyết của Quốc hội ban hành một số chính sách thuế nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp; Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi Điều 170 của Luật doanh nghiệp; Nghị quyết của UB Thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 928 năm 2010 về việc ban hành biểu mức thuế suất thuế tài nguyên…
Về chương trình của năm 2014, Phó Chủ tịch Uông Chu Lưu cho biết, Chính phủ đề nghị đưa vào Luật căn cước của công dân, Bộ luật hình sự (sửa đổi), Luật tiền lương tối thiểu, Luật trưng cầu ý dân, Luật biểu tình… Tuy nhiên, sau khi cân nhắc về các dự án do các cơ quan, tổ chức, đại biểu đề nghị, xét thứ tự ưu tiên, ông Lưu đề nghị chưa đưa các dự án này vào Chương trình năm 2014. Các cơ quan, tổ chức hữu quan vẫn tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn và chuẩn bị để khi có điều kiện sẽ bổ sung vào chương trình của từng năm cụ thể.
UB Thường vụ Quốc hội lập luận, cần ưu tiên cho việc sửa đổi, bổ sung các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, các luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; các dự án phục vụ cho việc tái cơ cấu kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. UB Thường vụ đề nghị đưa các dự án Luật tổ chức Quốc hội (sửa đổi), Luật tổ chức Chính phủ (sửa đổi), Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi) vào Chương trình năm 2014 và trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 7 và thông qua tại kỳ họp thứ 8. Luật xây dựng (sửa đổi), Luật phá sản (sửa đổi), Luật đầu tư (sửa đổi), Luật doanh nghiệp (sủa đổi), Luật kinh doanh bất động sản (sửa đổi)… cũng được đề xuất ưu tiên đưa vào chương trình năm 2014 để phúc đáp yêu cầu tái cơ cấu nền kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh.
2. Báo VnEconomy có bài Thêm sức ép chính sách tiền tệ. Bài báo phản ánh: Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Chỉ thị số 09/CT-TTg yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tăng cường chỉ đạo điều hành thực hiện nhiệm vụ tài chính - ngân sách nhà nước năm 2013.
Tại chỉ thị trên, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Ngân hàng Nhà nước điều hành linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng hợp lý. Thủ tướng yêu cầu tiếp tục giảm lãi suất cho vay, phấn đấu đạt tăng trưởng tín dụng ở mức 12% cả năm 2013, trong đó tập trung vốn vay cho các lĩnh vực ưu tiên; triển khai quyết liệt đề án cơ cấu lại các tổ chức tín dụng; đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ xấu.
Trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng vẫn ở mức thấp sau 5 tháng đầu năm, các lãi suất điều hành đã liên tục cắt giảm trong hơn một năm qua, yêu cầu trên tiếp tục tạo sức ép đối với Ngân hàng Nhà nước trong điều hành chính sách tiền tệ. Theo dữ liệu cập nhật mới nhất, tính đến ngày 22/5/2013, tín dụng mới chỉ tăng được 2,29% so cuối năm 2012; dự kiến đến hết tháng 5 có thể đạt mức 3%. Dù cải thiện so với cùng kỳ 2012, xu hướng tăng bắt đầu thể hiện rõ từ tháng 3/2013, nhưng tăng trưởng tín dụng vẫn ở mức thấp theo định hướng khoảng 12% năm nay.
Theo thông lệ hàng năm, dự kiến từ tháng 6, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp được thúc đẩy rõ rệt hơn, tín dụng cũng sẽ bắt nhịp để tạo tốc độ tăng trưởng mạnh hơn. Về lãi suất, từ tháng 3/2012 đến nay, Ngân hàng Nhà nước đã 8 lần cắt giảm các lãi suất điều hành, cũng như liên tiếp hạ trần lãi suất huy động VND. Đầu tháng 5 vừa qua, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cũng đã kêu gọi các thành viên trong hệ thống xem xét hạ lãi suất cho vay đối với các khoản nợ cũ về tối đa 13%/năm. Sức ép giảm tiếp lãi suất cho vay theo yêu cầu trên của Thủ tướng Chính phủ có trở ngại ở lãi suất huy động hiện khó giảm thêm. Một mặt, lãi suất huy động cần đảm bảo sự hấp dẫn đối với người gửi tiền, hạn chế sự dịch chuyển của dòng vốn nhàn rỗi trong dân cư sang ngoại tệ, vàng… Mặt khác, dư địa hạ lãi suất đã rất hẹp trước mục tiêu kiềm chế lạm phát năm nay.
Trước thực tế trên, một số ý kiến gần đây cho rằng, để tiếp tục giảm lãi suất cho vay hỗ trợ doanh nghiệp, Chính phủ và Quốc hội nên xem xét nới chỉ tiêu kiềm chế lạm phát năm nay từ 6 - 6,5% lên 7 - 8%.
3. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài Thành lập Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội. Bài báo đưa tin: Ngày 25 - 5, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao long trọng tổ chức Lễ công bố quyết định thành lập Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang - Trưởng Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương đã tham dự. Phát biểu tại Lễ công bố quyết định thành lập Trường Đại học Kiểm sát, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nhấn mạnh, Đại học Kiểm sát Hà Nội được thành lập sẽ tạo điều kiện cho ngành Kiểm sát chủ động đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, qua đó đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo điện tử Chính phủ có bài Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội Luật gia Việt Nam. Bài báo đưa tin: Thủ tướng Chính phủ vừa có Chỉ thị yêu cầu các bộ, ngành, địa phương thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội Luật gia Việt Nam trong giai đoạn mới.
Theo đó, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tư pháp đề xuất và thực hiện các biện pháp để phát huy vai trò của Hội Luật gia Việt Nam trong các hoạt động xây dựng pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, hòa giải ở cơ sở, giải quyết tranh chấp pháp lý ngoài cơ chế nhà nước, giám sát việc thi hành pháp luật; tạo điều kiện để Hội Luật gia tham gia tích cực trong việc xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án xã hội hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý và các hoạt động khác được giao.
2. Báo Công lý có bài Dự thảo Nghị định mới về đăng ký hộ tịch: Cởi mở cho dân! Bài báo bình luận: Dự thảo Nghị định mới về đăng ký hộ tịch có rất nhiều điểm sửa đổi theo hướng cởi mở, thông thoáng hơn nhằm thay thế Nghị định 83/1998/NĐ-CP, không còn phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay.
Dự thảo Nghị định mới bên cạnh việc giữ nguyên quy định đăng ký khai sinh tại nơi cư trú của người mẹ, đã bổ sung thêm quy định đăng ký khai sinh cho trẻ tại nơi cư trú của người cha hoặc nơi trẻ đang sống trên thực tế và bỏ quy định đăng ký khai sinh tại nơi sinh. Dự thảo cũng quy định cho phép khi đi đăng ký khai sinh, người đăng ký không cần phải xuất giấy chứng nhận kết hôn, hộ khẩu. Đặc biệt, trường hợp nếu không có giấy chứng sinh thì thay thế bằng việc xác nhận của người làm chứng, nếu không có ai xác nhận thì chỉ cần sự cam đoan về việc sinh con là có thật. Thời hạn đăng ký khai sinh cũng tăng lên 60 ngày so với 30 ngày như hiện nay.
Điều quan trọng nữa là bản chính của giấy khai sinh sẽ được cấp lại do Sở Tư pháp đảm nhiệm trong trường hợp bị mất, hư hỏng hoặc ghi chú quá nhiều nội dung thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch, chứ không phải chỉ được cấp một lần như hiện nay. Hy vọng rằng, nhờ quy định mới này 2 triệu trẻ em sẽ thuận lợi hơn khi đến tuổi đi học mẫu giáo, tiểu học.
Lại có phát sinh khác cần đưa vào dự thảo đó là trường hợp trẻ được ra đời bằng phương pháp “nhờ tử cung của người khác” mà dân gian gọi là mang thai hộ hay đẻ thuê này, đã thực sự mang đến hạnh phúc cho các cặp vợ chồng hiếm muộn. Vì lẽ đó, Vụ Pháp chế, Bộ Y tế đã kiến nghị bổ sung quy định mang thai hộ vào Luật HN&GĐ đang sửa đổi chắc chắn sẽ liên quan đến vấn đề hộ tịch .
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy rằng, cái gì có lợi cho dân thì phải kiên quyết làm bằng được, vận dụng vào việc ban hành các quy định cởi mở cho dân chính là làm theo lời Bác vậy!
3. Báo Hà Nội mới có bài Nhiều lỗ hổng trong hoạt động công chứng, chứng thực. Bài báo phản ánh: Qua 13 năm thực hiện Nghị định của Chính phủ về công chứng, chứng thực (NĐ 75/NĐ-CP), TP Hồ Chí Minh đã bước đầu giải quyết được lượng lớn nhu cầu xác thực tính hợp pháp trong các hợp đồng, giao dịch của người dân. Tuy nhiên, các hạn chế, bất cập phát sinh trong hoạt động này đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết.
Theo công chứng viên Nguyễn Hồ Phương Vinh (Phòng Công chứng số 1), hiện tượng giả mạo các văn bản công chứng, đặc biệt là các giấy tờ chủ quyền nhà ở, giấy tờ tùy thân… đang ở mức báo động (năm 2012, các tổ chức hành nghề công chứng tại TP đã thực hiện khoảng 900.000 giao dịch, trong đó có khoảng 50% giao dịch liên quan đến bất động sản). Đáng lưu ý, do các giao dịch về bất động sản thường có giá trị rất lớn và các mẫu giấy tờ chủ quyền nhà đất, giấy tờ tùy thân còn ít đặc điểm chống giả nên nhiều kẻ đã lợi dụng kẽ hở này để chiếm đoạt tài sản của người khác. Điển hình nhất, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP vừa bắt giữ Mai Hữu Thành (ngụ quận Bình Thạnh) lừa đảo, chiếm đoạt 5,1 tỷ đồng qua hành vi làm giả hồ sơ công chứng. Cụ thể, để qua mặt công chứng viên, Thành đã nhờ người đóng giả chủ sở hữu nhà đất, rồi làm giả CMND, hộ khẩu, sau đó dán ảnh của những người này vào. Do việc làm giả rất tinh vi nên Thành và đồng bọn đã dễ dàng thực hiện trót lọt thủ tục công chứng giấy tờ, lừa vay được hàng tỷ đồng. Không chỉ vậy, nhiều đối tượng còn đóng giả cả người đứng tên các giao dịch, hợp đồng chung. Theo một công chứng viên, trong đa số trường hợp, nạn nhân bị lừa đảo bởi hoạt động giả mạo giấy tờ công chứng thường mất trắng tài sản. Bởi, các đối tượng lừa đảo sau khi thực hiện hành vi đều tìm cách lẩn trốn, nạn nhân thường phải chờ cơ quan công an can thiệp hoặc kiện ra tòa… Ngay cả trong trường hợp tòa tuyên án theo hướng bên bán phải trả lại tiền cho người bị hại thì chưa chắc bên bán đã có tiền hoặc tài sản để trả.
Trao đổi với chúng tôi, Thạc sĩ Ninh Thị Hiền, Trưởng phòng Công chứng Bảy Hiền (quận Tân Bình) cho biết, các hành vi gian lận, giả mạo giấy tờ trong hoạt động này rất tinh vi nên không dễ phát hiện và triệt phá. Vấn đề chính dẫn tới "lỗ hổng" trong hoạt động công chứng không nằm ở con người mà ở chính các biểu mẫu văn bản đã quá lạc hậu so với thực tế.
Chia sẻ về vấn đề này, ông Lê Ngọc Thanh, giảng viên ĐH Lao động - Xã hội cho biết, điều 152 Luật Nhà ở đến nay vẫn quy định giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở đã được cấp trong các thời kỳ trước đây đều có giá trị pháp lý và vẫn sử dụng được trong các giao dịch. Tuy nhiên, hiện quy định này gây khó khăn trong việc nhận dạng tại các phòng công chứng. Hậu quả là người dân khó có khả năng để đủ điều kiện thực hiện các giao dịch hay hợp đồng.
4. Báo Đại đoàn kết có bài Ngoại tình bị phạt... 5 triệu đồng: Thiếu thực tế, không khả thi! Bài báo phản ánh: Bộ Tư pháp đang xây dựng Dự thảo Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp. Theo đó, hành vi ngoại tình bị phạt từ 2-5 triệu đồng (mức phạt trong Dự thảo Nghị định cũ từ 200.000-1 triệu đồng). Nhưng vấn đề đặt ra là: Cơ quan nào có thẩm quyền phạt? Nhà nước sẽ hình thành bộ phận kiểm sát chuyên trách, phát hiện và xử phạt hành vi vi phạm hay chỉ giải quyết theo yêu cầu của người dân? Nếu có yêu cầu của người dân thì việc xác minh sẽ như thế nào? Thì Nghị định lại không đề cập đến.
Trao đổi với PV báo Đại Đoàn Kết, Luật sư Nguyễn Đình Khỏe, Trưởng Văn phòng luật sư Tràng Thi (Hà Nội) cho rằng, tại Điều 8, Nghị định 87/2001/NĐ-CP cũng đã có quy định và đưa ra mức xử phạt đối với hành vi vi phạm chế độ một vợ một chồng từ 100.000-500.000 đồng. Điều 46 Dự thảo Nghị định này có nội dung không thay đổi so với nội dung quy định tại Điều 8, Nghị định 87 mà chỉ khác nhau về mức phạt. Mặt khác, tại Điều 147, Bộ luật Hình sự cũng đã hình sự hóa hành vi vi phạm chế độ một vợ một chồng. Theo ông Khỏe, nếu như hai người có hành vi vi phạm chế độ hôn nhân "một vợ một chồng” nhưng họ chỉ lén lút quan hệ tình dục tại nhà nghỉ, khách sạn thì lại không thể áp dụng việc xử phạt hành chính được, trong khi hành vi này mới là hành vi chiếm tỷ lệ lớn. Do vậy, Dự thảo Nghị định đã bỏ lọt phần lớn hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng, khiến cho dư luận tưởng rằng có thể giải quyết được toàn bộ các hành vi ngoại tình nhưng thực chất chỉ giải quyết được một góc rất nhỏ.
Một vấn đề đặt ra đó là Dự thảo Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp mới chỉ đưa ra việc xử phạt nhưng lại chưa giải quyết được các vấn đề như: Cơ quan nào có thẩm quyền phạt? Nhà nước sẽ hình thành bộ phận kiểm sát chuyên trách, phát hiện và xử phạt hành vi vi phạm hay chỉ giải quyết theo yêu cầu của người dân? Nếu thế thì những ai có quyền đề nghị cơ quan nhà nước vào cuộc? Nếu có yêu cầu của người dân thì việc xác minh sẽ như thế nào? Cần những chứng cứ nào để chứng minh? Trước những vấn đề mà chúng tôi đặt ra, ông Khỏe cho rằng, lực lượng nào xử phạt cũng đang là vấn đề, trong khi Dự thảo Nghị định này cũng không quy định rõ. "Nếu giao cho cơ quan Công an thì sẽ gây "quá tải” cho lực lượng này, bởi lực lượng Công an còn nhiệm vụ bảo vệ trật tự xã hội. Còn nếu thành lập một lực lượng mới để "xử lý ngoại tình” thì phải duy trì hoạt động cũng như kinh phí cho lực lượng này” - ông Khỏe nói. Ông Khỏe cũng cho rằng, việc "bắt quả tang” ngoại tình cũng không hề đơn giản. Chỉ khi có yêu cầu của "bị hại” thì lực lượng chức năng mới vào cuộc. Do vậy, tính khả thi của điều luật là chưa cao.
Muốn xử phạt được hành vi ngoại tình thì lực lượng chức năng phải nhận được nguồn tin tố giác của "bị hại”. Tuy nhiên, qua khảo sát của chúng tôi cho thấy, ít khi "bị hại” đến cơ quan chức năng trình báo về việc mình "bị phản bội”. Trao đổi với chúng tôi, chị Bùi Hoàng Yến (33 tuổi, Linh Đàm, Hà Nội) cho rằng, trong trường hợp phát hiện chồng mình ngoại tình thì chị sẽ tự giải quyết, thay vì đến cơ quan chức năng trình báo để lực lượng chức năng đến "bắt quả tang” và xử phạt. Đồng tình với quan điểm trên, anh Vũ Minh Giang (Định Công, Hà Nội) cũng cho rằng, nếu việc vợ đi "ngoại tình” mà bị lực lượng chức năng phát hiện, lập biên bản xử lý, rồi rùm beng lên thì sẽ ảnh hưởng lớn đến danh dự, cuộc sống. "Đối với các nước khác thì bình thường. Nhưng do phong tục tập quán của nước ta, việc bị "phản bội” là một "vấn đề lớn. Do vậy, "tự xử” còn hơn”-anh Giang nói.
Luật sư Trần Anh Tú (Đoàn Luật sư TP. Hà Nội) cho rằng, Dự thảo quy định, để xử phạt hành vi vi phạm chế độ "một vợ một chồng” thì phải có yếu tố "chung sống như vợ chồng, có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình, cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó. Như vậy, muốn xử phạt hành chính hành vi ngoại tình phải cần đến ba yếu tố: có con chung, có tài sản chung, quan hệ chung sống phải được hàng xóm xác nhận. Rõ ràng nếu thiếu 1 trong 3 yếu tố này thì không thể xử phạt. Theo ông Tú, quy định xử phạt việc ngoại tình như thế không khả thi vì quá khó để xác định việc "chung sống như vợ chồng” cũng như thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng?. Ông Tú cũng cho rằng, Dự thảo chỉ nêu lên, gợi mở ra 1 trong những vấn đề rất nóng hiện nay của xã hội là ngoại tình- một nguyên nhân chủ yếu dẫn đến ly hôn, tan vỡ hạnh phúc gia đình nhưng lại chưa đưa ra phương án giải quyết được tận gốc vấn đề.
5. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Mòn dép đi đòi 13 triệu tiền bồi thường. Bài báo phản ánh sự việc liên quan đến bà Võ Thị Ngọc Hạnh (Ấp Hòa Lộc, xã Xuân Hòa, huyện Kế Sách, Sóc Trăng): Ngày 1-3-2011, tôi vào làm việc tại Công ty TNHH GD Việt Nam (phường Đông Hưng Thuận, quận 12, TP.HCM) nhưng đến tháng 10-2011 tôi mới được công ty ký hợp đồng lao động với thời hạn một năm. Hai tháng sau, công ty ra quyết định cho tôi thôi việc với lý do tôi không hoàn thành nhiệm vụ. Đáng nói là vào thời điểm đó tôi làm tốt công việc thợ phụ lấy dấu, mực chấm lên mẫu quần áo cho thợ may.
Tháng 3-2012, tôi gửi đơn kiện công ty ra TAND quận 12 đòi sổ bảo hiểm xã hội và bồi thường thiệt hại do bị buộc thôi việc sai luật. Tháng 6-2012, TAND quận 12 đã xử tôi thắng kiện và buộc công ty phải bồi thường thiệt hại cho tôi 13.826.709 đồng (gồm có tiền bồi thường sáu tháng không được làm việc; tiền bảy ngày phép năm; tiền công làm Chủ nhật). Ngoài ra, công ty phải chốt và giao trả sổ bảo hiểm xã hội cho tôi.
Sau nhiều lần tới công ty đòi tiền và xin nhận sổ nhưng họ không trả nên tôi đã gửi đơn yêu cầu thi hành án (THA). Tháng 8-2012, Chi cục THA quận 12 ra quyết định THA các khoản nêu trên. Tưởng vậy là tôi có thể nhận tiền và sổ bảo hiểm của mình nhưng tới nay đã hơn chín tháng mà tôi vẫn chưa được THA. Khi thì chấp hành viên kêu tôi cho số tài khoản của công ty, cái này tôi đành chịu vì ngay cả việc vào công ty mà bảo vệ còn không cho thì làm sao tôi xin được số tài khoản của họ. Lúc chấp hành viên bảo chờ khi nào có họ sẽ gọi nhưng chờ tới giờ này cũng chưa có. Tôi tốn thêm một mớ tiền cho mỗi lần lặn lội từ quê lên thành phố mà không được việc nên giờ tôi không dám đi nữa. Lâu lâu tôi điện thoại hỏi thăm thì chấp hành viên cứ nói chờ.
Hiện giờ tôi ở nhà phụ cha mẹ lo cho đứa em út bị bại não nên chưa thể đi làm. Nhà tôi chỉ làm ruộng nên cuộc sống rất khó khăn. Phải chi tôi sớm có được số tiền trên để phụ cha mẹ thì đỡ biết mấy.
6. Báo Nhà báo & Công luận có bài Chi cục Thi hành án quận Bình Tân (TPHCM): "Nhường" quyền thi hành án cho dân? Bài báo phản ánh: Ngày 21/3/2011, bà Nguyễn Thị Lan (ngụ tại 67/30, hẻm 100, đường Bình Thới, P.14, Q.11) ký hợp đồng với bà Phạm Thị Bé và ông Phạm Thanh Bình mua lô đất 5m x 18m tại phường Bình Hưng Hòa A, quận Bình Tân với số tiền là 650 triệu đồng. Do quá tin người, nên khi hợp đồng chưa kịp chứng thực tại cơ quan chức năng thì họ đã giao đủ tiền. Thực tế, lô đất trên đã được ông Bình và bà Bé chuyển nhượng cho nhiều người khác trước đó. Biết mình bị lừa, bà Lan đến đòi lại tiền thì ông Bình và bà Bé “trở mặt” phớt lờ trách nhiệm, liên tiếp “tung ra” những lời thách thức và đe dọa chém giết. Cuối cùng, bà Lan buộc phải làm đơn gửi lên TAND quận Bình Tân nhờ can thiệp. Tại Quyết định số 84 (04/7/2012), tòa công nhận sự thỏa thuận của các đương sự là bị đơn phải trả lại số tiền 760 triệu đồng (gồm tiền mua nhà và hỗ trợ thiệt hại) cho bà Lan. Trước mặt các cơ quan chức năng bà Bé và ông Bình luôn đồng ý trả, song trên thực tế họ không bao giờ có ý thực hiện. Công lý lại trông chờ vào Chi cục Thi hành án quận Bình Tân, nhưng tắc trách cũng xuất phát từ đây…
Theo Quyết định 84, việc trả tiền được chia thành ba đợt: đợt 1 vào ngày 06/7/2012 trả 260 triệu đồng ; đợt 2 ngày 27/7/2012 trả 250 triệu đồng và đợt 3 ngày 17/8/2012 trả 250 triệu đồng. Gia đình bà Lan sau khi nhận quyết định đợi mãi không thấy bà Bé trả tiền, nên đã gửi đơn yêu cầu thi hành án lên Chi cục Thi hành án quận Bình Tân ngày 16/7/2012 (người nhận đơn này là chấp hành viên Dương Thị Hồng Ánh). Đơn này là yếu tố rất quan trọng để cơ quan thi hành án kịp thời vào cuộc nhằm chặn đứng và phong tỏa tài sản được thi hành án, tránh trường hợp bị đơn tẩu tán. Hai ngay sau, ngày 18/7/2012 Chi cục Thi hành án ban hành quyết định thi hành án. Tuy nhiên, mọi việc chưa kịp giải quyết thì ngày 19/7/2012 bà Bé đã bán căn nhà cho một người khác là bà Lưu Ngọc Diệu với giá 3,9 tỉ đồng. Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ (có tài sản gắn liền với đất) này có chứng thực của Phòng công chứng số 7. Tức là, về lý có thể đây là giao dịch hợp pháp và bà Diệu không hề biết mình đang mua nhằm tài sản đang được thi hành án, còn về tình thì bà Diệu cho biết “Trước giờ tôi cũng từng làm ăn giao dịch mua bán với bà Bé nhiều lần nhưng đều suôn sẻ, ai ngờ lần này lại dính vào chuyện phức tạp này”?
Sự xuất hiện của bà Diệu đã làm tình hình thêm phức tạp và khiến việc đòi tiền của bà Lan khó khăn hơn xuất phát từ việc ra quyết định ngăn chặn thiếu nhất quán của cơ quan thi hành án. Cụ thể, ngày 02/8/2012, tức hơn nửa tháng sau khi bà Lan nộp đơn, chấp hành viên Dương Thị Hồng Ánh mới ban hành Quyết định 539 ngăn chặn hành vi chuyển quyền sở hữu, sử dụng, tẩu tán, hủy hoại, thay đổi hiện trạng tài sản của bà Bé. Thế nhưng, đến ngày 29/8/2012 bà Ánh lại ký tiếp quyết định 605 không cần ngăn chặn việc tẩu tán tài sản đang trong trình trạng thi hành án của bà Bé. Rồi đến ngày 19/9/2012 bà Ánh lại tiếp tục ký quyết định 671 cần thiết phải ngăn chặn? Vậy thì động cơ nào khiến bà Ánh ký các quyết định “kỳ lạ” này? Phải chăng trong quá trình xử lý vụ việc đã chứa đựng nhiều sự “mờ ám” mà các cơ quan chức năng cần phải vào cuộc làm rõ. Tiếp xúc với phóng viên, bà Ánh né tránh “Việc này tôi giao lại cho người khác rồi, có gì đi mà hỏi sếp”.
Ông Nguyễn Văn Nghĩa , Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án quận Bình Tân cho biết: “Đúng là có chậm thi hành án, do sự việc còn dính líu đến bên thứ ba là bà Diệu nên theo tôi, bà Lan có hai cách lựa chọn: Một là, 3 bên cùng chờ ngày ra tòa để xem quyết định hợp đồng chuyển nhượng giữa bà Bé và bà Diệu có hợp pháp không? Nếu không thì chúng tôi sẽ thi hành án cho bà Lan, còn ngược lại thì bà Lan phải tìm cho ra tài sản khác của bà Bé để chúng tôi tiến hành phong tỏa thi hành. Còn hai, bà Lan phải chịu nhận 600 triệu đồng từ bà Diệu trả thay cho bà Bé (bà Diệu đã xác nhận chuyện này) thì mọi chuyện coi như xong.! Còn lại 160 triệu đồng, bà Lan phải tiếp tục tìm ra tài sản khác của bà Bé để có điều kiện thi hành án”.
Như vậy, nhận 600 triệu đồng này đồng nghĩa với việc bà Lan sẽ không bao giờ lấy được 160 triệu đồng còn lại (do bà Bé không còn tài sản, bản thân đang bệnh nặng, em trai Bình thì đang ở trong tù) và cũng mất luôn số tiền lãi suất nợ cơ bản do ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án. Trong khi đó, theo tìm hiểu của chúng tôi, tiền mua lô đất đó là tiền thế chấp giấy tờ nhà của con bà để vay ngân hàng, hàng tháng phải trả dần vốn lẫn lãi gần 20 triệu đồng. Nợ nần chồng chất, chồng thì bị tai biến, bản thân bà Lan cũng chẳng khá gì hơn. Hiện tại, bà đang phải sống nhờ nhà con gái, mọi việc đều nhờ con lo liệu, trong khi hoàn cảnh chị Như Diễm con bà cũng hết sức khó khăn.
7. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Chậm xử lý bí thư xã dùng bằng giả: người mất bằng kêu cứu! Bài báo phản ánh: Ông Trịnh Huy Truyền, cán bộ tư pháp, hộ tịch xã Vĩnh Thịnh- người bỗng dưng bị Ủy ban kiểm tra Tỉnh ủy Vĩnh Phúc đưa vào nội dung kiểm tra khi báo chí phát giác ông Đàm Minh Tuấn bí thư xã Vĩnh Thịnh dùng bằng giả, hôm 20.5.2013 đã có đơn kêu oan gửi tới các cơ quan chức năng và báo chí.
Lá đơn đề: kiến nghị khẩn cấp, được gửi tới: Ủy ban kiểm tra Trung Ương, UBKT Tỉnh ủy Vĩnh Phúc, Thanh tra Chính phủ, các cơ quan thông tấn báo chí. Nội dung lá đơn, ông Trịnh Huy Truyền trình bày: sự việc đồng chí Đàm Minh Tuấn sử dụng bằng tốt nghiệp cấp ba bổ túc văn hóa giả không liên quan gì tới tôi. Tôi đã trình bày nhiều lần với các đồng chí ( Ủy ban kiểm tra Tỉnh ủy Vĩnh Phúc) rằng tôi không biết đồng chí Tuấn sử dụng bằng giả như thế nào. Qua thông tin báo chí tôi mới biết đồng chí Tuấn đã tẩy xóa và thay tên tôi thành tên đồng chí Tuấn tôi mới biết bằng của mình bị đồng chí Tuấn sử dụng.
Ông Truyền nêu kiến nghị: việc các cơ quan chức năng chưa đưa ra được quyết định xử lý dứt điểm làm ảnh hưởng đến uy tín cá nhân tôi. Sự việc không hề liên quan đến tôi những không được kết luận đã tạo ra sự hoài nghi trong đồng nghiệp và quần chúng rằng tôi có liên quan. Cuộc sống và công việc của tôi đang bị ảnh hưởng, đảo lộn nghiêm trọng. Ông Truyền đề nghị các cơ quan chức năng sớm làm rõ, kết luận và xử lý nghiêm minh để được minh oan.
Trao đổi với phóng viên qua điện thoại, ông Truyền cho biết đã gửi lá đơn tới các địa chỉ như nói ở trên và đang chờ hồi âm từ các cơ quan này. Trong khi đó, xác nhận với phóng viên, đại diện Ủy ban kiểm tra Tỉnh ủy Vĩnh Phúc vẫn khẳng định sẽ có cuộc đối chất giữa ông Tuấn và ông Truyền. Cách làm kỳ lạ này đang dấy lên những nghi vấn về sự khách quan của các cấp ủy tỉnh Vĩnh Phúc.
Cần nhắc lại rằng trong sự việc này ông Đàm Minh Tuấn ngay từ đầu đã nhận mình sử dụng bằng giả. Hơn thế, còn là người tẩy sửa và xin xác nhận của Sở GDĐT Vĩnh Phúc để xác thực tính hợp pháp của văn bằng. UBND xã Vĩnh Thịnh cũng xác nhận tính hợp pháp của văn bằng giả này để ông Tuấn sử dụng. Thế nhưng Ủy ban kiểm tra Tỉnh ủy Vĩnh Phúc không đặt trách nhiệm của Sở GDĐT Vĩnh Phúc cũng như UBND xã Vĩnh Thịnh mà chỉ tập trung vào điều tra ông Truyền. Việc điều tra ông Truyền lại xuất phát từ trình bày một phía của người vi phạm là ông Đàm Minh Tuấn???
UBKT T.U Tỉnh ủy Vĩnh Phúc cần sớm xử lý bí thư xã dùng bằng giả, trả lại công bằng cho người bị hàm oan, lấy lại niềm tin của nhân dân vào đội ngũ của Đảng.
III- CÁC THÔNG TIN KHÁC
1. Báo điện tử của Bộ Thông tin và Truyền thông có bài "Nhiều quy định trong Luật Cư trú còn rất khôi hài". Bài báo phản ánh: Chiều 24/5, tiếp tục kỳ họp thứ 5, Quốc hội tiến hành thảo luận ở tổ về Dự kiến Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2014, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh khóa XIII và năm 2013 của Quốc hội; Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật cư trú.
Đại biểu Đỗ Văn Đương (TP Hồ Chí Minh) cho rằng, việc quy định thời hạn đăng ký tạm trú là không cần thiết, quy định hiện hành không quy định nhưng trong dự thảo lại bắt buộc, gây nhiều tốn kém về chi phí và rườm rà về thủ tục. “Theo tôi cần giữ nguyên như hiện hành không nên quy định thời hạn, nhưng trong thời hạn 1, 2 năm phải báo cáo với công an và chính quyền địa phương về tạm trú để đảm bảo an ninh trật tự”, ông Đương nhấn mạnh.
Về quy định độ tuổi phải thông báo lưu trú vớ công an xã phường là 14 tuổi là chưa có cơ sở thuyết phục cần hạ độ tuổi xuống. Ông Đương lý giải do, tình hình hiện nay phạm tội gia tăng với độ tuổi còn rất trẻ… Để đảm bảo việc quản lý con người chặt chẽ tại nơi cư trú cần phải hạ thấp độ tuổi xuống 12 tuổi. Cần mở rộng phạm vi chứ không nên thu hẹp lại.
Đại biểu Huỳnh Ngọc Ánh (TP. Hồ Chí Minh), cho rằng trên thực tế Luật cư trú đã mở rộng phạm vi đi lại nhưng lại nới lỏng chuyện quản lý con người. Hiện có thực tế đang tồn tại người dân cư trú không quản lý được ở các đô thị lớn. Các hợp đồng dân sự, cá nhân lúc vay có địa chỉ, lúc không có khả năng trả nợ khi đi tìm lại không có ở địa phương gây khó khăn trong quá trình giải quyết tranh chấp, kiện tụng vì không tìm ra nơi ở của bị đơn. Khi xét xử, thi hành án cũng không thực hiện được vì không tìm được người để thi hành án.
Đại biểu Ánh đề nghị, nhà nước cần tạo điều kiện cho công dân ở, đi lại và phải có nghĩa vụ báo với cơ quan quản lý về chỗ ở, khi thay đổi. Quy định về thời hạn tạm trú 24 tháng vẫn là dài cần thu hẹp thời hạn đăng ký tạm trú xuốn là 12 tháng. Cùng với đó Luật cũng cần tính đến việc tránh diện tích nhà quá nhỏ và nhiều người đăng ký thì cần làm rõ quy định về diện tích nhà ở.
ĐB Trương Trọng Nghĩa lại cho rằng, cần phải nghiên cứu kỹ vì cư trú là vấn đề liên quan đến Hiến định nên yêu cầu cần đơn giản tránh rườm rà. Đề nghị Chính phủ, Bộ Công an nghiên cứu lại quy định cư trú chứ như hiện nay còn phiền toái lắm. Người dân phàn nàn nhiều về việc quản lý, nhà nước tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân thực hiện quyền tự do cư trú. Trước đây quản lý chặt chẽ ít rườm rà hơn chứ bây giờ rườm rà quá, cần xem lại bộ máy, con người và đạo đức công vụ dẫn đến quản lý lỏng léo.
ĐB Nguyễn Văn Phúc (Hà Tĩnh) đề nghị cần làm rõ xem dự án luật cư trú có đúng quy định theo Hiến pháp không.
Ông Phúc băn khoăn về quy định của Điều 20 luật cư trú, khi chồng có hộ khẩu thì vợ muốn nhập khẩu cùng phải được sự đồng ý của chồng, con muốn nhập khẩu phải được sự đồng ý của bố, điều này rất khôi hài. Bởi vì vợ đương nhiên phải theo chồng, con đang là vị thành niên thì phải theo bố mẹ.
2. Báo Giao thông vận tải điện tử có bài Những quy định bị bỏ quên về thị trường xăng dầu. Bài báo phản ánh: Qua khảo sát, Hiệp hội Xăng dầu (Vinpa) cho biết: Quy định về việc mỗi tổng đại lý (hoặc đại lý) chỉ được phép ký hợp đồng với một thương nhân đầu mối có từ rất lâu nhưng gần như không bên nào tuân thủ. Lý do, theo Vinpa là vì quy định này chưa hợp lý. “Về bản chất, hợp đồng tổng đại lý, hoặc đại lý là hợp đồng mua đứt bán đoạn, mà ở đó tổng đại lý phải chịu rất nhiều yếu tố rủi ro. Mặt khác, toàn bộ chi phí xây dựng cửa hàng xăng dầu đều do tổng đại lý, đại lý đảm nhận, không có sự hỗ trợ nào của thương nhân đầu mối. Vì thế quy định chỉ được ký với một đầu mối là thiếu công bằng” - Vinpa lý giải.
Ông Nguyễn Văn Tiu, đại diện một Tổng đại lý của Petrolimex tại Hà Nội cũng thừa nhận hầu hết các đại lý đều ký với từ 2 đầu mối trở lên. Như vậy mới đảm bảo được nguồn hàng, đảm bảo được lợi nhuận. Vào cùng một thời điểm, nhưng có đầu mối chiết khấu 900, 1.000 đồng/lít; có đầu mối chỉ 700, 800 đồng. Các tổng đại lý vì vậy cũng “liệu cơm gắp mắm”, bên nào trích cao thì nhập hàng bên đó. Ngoài ra, ông Tiu còn chỉ ra rằng, có những đầu mối lúc khan hàng, lỗ quá không nhập, nên các tổng đại lý cũng vì thế mà không có hàng cấp cho đại lý. “Chúng tôi cũng rất muốn ký với một đầu mối, vừa dễ quản lý, vừa đảm bảo nguồn cung, thuận tiện phục vụ cho các đại lý, nhưng nhiều lúc bất tiện” - ông Nguyễn Văn Tiu bày tỏ.
Không riêng gì quy định này, một quy định khác cũng chỉ để “cho có” là tổng đại lý phải sở hữu hoặc đồng sở hữu hay thuê sử dụng từ 5 năm trở lên kho chứa 5.000 m3 để đảm bảo cung ứng ổn định cho hệ thống phân phối của mình. Vinpa cho rằng, để có được một kho chứa xăng dầu như vậy, đại lý cần có diện tích trên 1 ha, kinh phí đầu tư không dưới 30 tỷ đồng và thời gian thực hiện không dưới 3 năm. Điều kiện này đối với tổng đại lý trở nên “bất khả thi” và để có được giấy phép, họ buộc phải “hợp thức hóa” điều kiện này bằng một hợp đồng thuê với chính thương nhân đầu mối. Đầu mối vì muốn mở rộng thị phần nên cũng sẵn sàng ký hợp đồng cho tổng đại lý thuê. Cuối cùng, quy định chỉ còn là hình thức. Hầu như trên dưới 300 tổng đại lý xăng dầu trên toàn quốc đều không ai đầu tư kho chứa theo quy định. Vì các lý do trên, Vinpa kiến nghị nên bỏ quy định về kho chứa với tổng đại lý và quy định về việc chỉ được ký hợp đồng với một đầu mối.
Đáng nói hơn, đó là dự trữ lưu thông xăng dầu. Quy định dự trữ lưu thông vốn để phòng trừ những trường hợp bất thường, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng cho đất nước, tuy nhiên “không phải tất cả các đầu mối đều dự trữ” - lãnh đạo một đầu mối tiết lộ.
Thực tế này không mới. Petrolimex đã nhiều lần kêu ca về tình trạng tiêu thụ trong hệ thống của họ tăng vọt khi thị trường khó khăn. Lãnh đạo các đầu mối biết, tổng đại lý cũng biết, mà thậm chí các cơ quan quản lý nhà nước cũng biết. Tuy nhiên, từ trước tới nay, duy nhất có Công ty Xăng dầu Hàng hải bị truất quyền nhập khẩu xăng dầu (nhưng sau đó lại được cấp phép trở lại).
Quay trở lại vấn đề gây tranh cãi giữa cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu là nên tăng hay hạ chuẩn đối với tổng đại lý? Theo lý luận của DN, tổng đại lý chỉ như “cánh tay nối dài” của đầu mối, giúp lan tỏa hệ thống phân phối, vận chuyển xăng dầu đến những nơi khó khăn mà đầu mối không tới được, bởi vậy không nên ép chuẩn. Tuy nhiên, Bộ Công thương lại vẫn muốn “làm chặt” quy định này. Trên thực tế, sau nhiều năm áp dụng các quy định bắt buộc, hệ thống phân phối xăng dầu của chúng ta không hề lớn mạnh lên, cơ sở vật chất không được đầu tư mới. Với trọng trách của mình, lẽ dễ hiểu là Bộ Công thương muốn “ít người” và “nhiều tóc”, bởi không ai thấm thía hơn họ về tình trạng lộn xộn của thị trường mỗi khi giá xăng dầu leo thang. Nhiều cửa hàng đóng cửa, đại lý kêu thiếu hàng, tổng đại lý cũng kêu thiếu hàng trong khi đầu mối lúc nào cũng khẳng định đủ. Kiểm tra hồ sơ thì... đủ thật.
Có lẽ đây là câu trả lời vì sao thị trường xăng dầu Việt Nam lộn xộn, cả cơ quan quản lý, người tham gia thị trường và người dân đều... khổ. Quy định thì chặt chẽ, thậm chí rất chặt chẽ, nhưng không ai tuân thủ. Và dù ai cũng lén lút vi phạm, ai cũng biết có người vi phạm, nhưng lại không chỉ ra được (hoặc không chỉ ra) đó là ai (!).