I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Về Góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992:
- Báo An ninh Thủ đô có bài Đề xuất Thường vụ Quốc hội được miễn nhiệm Bộ trưởng. Bài báo phản ánh: Ngày 11-3, Ủy ban Pháp luật đã tổ chức góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Một trong những đề xuất đáng chú ý được đưa ra là nên quy định cho phép Ủy ban Thường vụ Quốc hội được phép phê chuẩn, miễn nhiệm Bộ trưởng khi Quốc hội không họp.
Các vấn đề liên quan đến đất đai trong dự thảo Hiến pháp được nhiều ĐBQH quan tâm. Một số ĐBQH đề nghị nên bỏ quy định Nhà nước thu hồi đất phục vụ cho dự án phát triển kinh tế - xã hội. ĐBQH Trần Văn Tư (Đồng Nai) cho rằng, các dự án phục vụ lợi ích kinh tế phải theo luật định, nếu Nhà nước lại tiến hành cả việc thu hồi đất phục vụ cho các dự án kinh tế là không phù hợp. Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, ông Đặng Đình Luyến cũng cho rằng, không nên quy định cứng việc thu hồi đất phục vụ các dự án phát triển kinh tế - xã hội. Ông cũng phát hiện, dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã quy định 2 cách thức tính bồi thường rất khác nhau. Tại khoản 3, Điều 56 quy định: “Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân, tổ chức theo giá thị trường. Thể thức trưng mua, trưng dụng do luật định”. Còn khoản 3, Điều 58 lại quy định: “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân sử dụng có bồi thường theo quy định của pháp luật trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế - xã hội”.
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật phân tích: “Nếu trưng mua, trưng dụng thì bản chất cũng là thu hồi đất nhưng Nhà nước bồi thường. Nhưng theo Điều 56 là bồi thường theo cơ chế thị trường. Còn nếu Điều 58 là theo quy định pháp luật, tức Nhà nước định giá đất. Đáng chú ý, giá đất Nhà nước định giá thì không thể bằng giá thị trường nên người dân sẽ thiệt thòi. Do vậy, cần nghiên cứu quy định cho hợp lý hơn”. Cũng về vấn đề này, Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp Đinh Xuân Thảo cho biết thêm, Hiến pháp hiện hành không quy định quyền sử dụng đất là quyền tài sản. Trong khi đó, quan điểm sửa đổi hiện nay là làm rõ hơn quyền của người sử dụng đất. Đặc biệt, quyền sử dụng đất được ghi nhận vào Hiến pháp như là quyền tài sản. Do đó, nếu muốn tiếp tục thu hồi thì không thể giữ khái niệm quyền sử dụng đất cũng là tài sản. Phó Chánh án TAND Tối cao, ĐB Trần Văn Độ cho rằng, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý theo quy định của pháp luật. Như vậy, Nhà nước vừa là đại diện chủ sở hữu và vừa có trách nhiệm quản lý, tức là đóng hai “vai” một lúc. Ông nói: “Phải phân biệt rạch ròi việc này, nếu không vấn đề đất đai sẽ còn vướng”.
Liên quan tới vấn đề nhân sự, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Đặng Đình Luyến đề nghị, dự thảo sửa đổi Hiến pháp lần này nên giao cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội thẩm quyền xử lý một số vấn đề. Cụ thể, khi Quốc hội không họp thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội có quyền phê chuẩn, miễn nhiệm các chức danh do Quốc hội bầu và phê chuẩn. ĐB Đặng Đình Luyến nêu ví dụ, thời gian qua, thực hiện công tác quản lý, cơ quan có thẩm quyền của Đảng đã quyết định chuyển Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ sang giữ chức danh Trưởng Ban Kinh tế Trung ương. Tuy nhiên, chức danh Bộ trưởng phải do Quốc hội bầu và phê chuẩn, nhưng do Quốc hội chưa họp nên chưa thể xử lý được vấn đề trên.
- Trang VOV Online có bài Vấn đề đất đai trong Hiến pháp sửa đổi. Bài báo phản ánh: Liên quan đến việc thu hồi đất trong Hiến pháp sửa đổi, nên bỏ cụm từ “các dự án phát triển kinh tế-xã hội”. Bài báo phản ánh: Ông Nguyễn Văn Phúc – Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cho biết: Việc xây dựng Điều 58 dựa trên cơ sở Nghị quyết Trung ương 6. Khẳng định đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước, thuộc sở hữu toàn dân, được quản lý theo qui hoạch và pháp luật… Ngoài qui định Nhà nước giao đất cho tổ chức, cá nhân, bổ sung qui định Nhà nước cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất để sử dụng ổn định, lâu dài hoặc có thời hạn. Đồng thời, bổ sung qui định quyền sử dụng đất là quyền tài sản được pháp luật bảo hộ.
Theo dõi quá trình thảo luận, ông Phúc cho hay, có nhiều ý kiến thảo luận về hình thức thu hồi đất. Ví dụ, đối với đất thực hiện các dự án phát triển kinh tế, đất không phải do Nhà nước giao mà nhận chuyển nhượng trên thị trường có nguồn gốc khác thì nên qui định Nhà nước thu hồi theo hình thức trưng mua. Có ý kiến đề nghị làm rõ mối quan hệ giữa Luật Đất đai (sửa đổi) dự kiến được thông qua trước với các nội dung về đất đai trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp được thông qua sau.
Đóng góp ý kiến cho Điều 58, ông Trần Du Lịch (đại biểu Quốc hội đoàn TP HCM) cho rằng, hai khoản 2 và 3 của điều này là mâu thuẫn nhau. Thực tế, quyền sử dụng đất là quyền tài sản được luật pháp bảo hộ, chỉ có trưng mua, trưng dụng theo Hiến pháp. Chúng ta vừa nói ở trên là quyền tài sản của dân thì sao có thể thu hồi của người ta được? Trước đây, trưng mua, trưng dụng vì lý do an ninh quốc phòng rõ ràng thì mới làm được còn với các dự án phát triển kinh tế-xã hội thì không thể làm theo cách này.
Cũng theo ông Lịch, trong khoản 3, Điều 58, nên bỏ cụm từ “và các dự án phát triển kinh tế-xã hội”. Vì lợi ích công cộng, quốc gia là tối quan trọng rồi. Bây giờ không có gì trên được lợi ích quốc gia.
Cũng băn khoăn về nội dung này, ông Vũ Viết Ngoạn cho rằng, khoản 3, Điều 58 viết: “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân sử dụng có bồi thường theo qui định của pháp luật trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế-xã hội”. Nếu qui định như vậy sẽ mâu thuẫn với điều 56. Đó là: Tài sản hợp pháp của tổ chức, cá nhân được Nhà nước thừa nhận, bảo hộ và không bị quốc hữu hóa. Để không còn mâu thuẫn, nên sửa lại Điều 56.
Còn GS Nguyễn Lân Dũng (đại biểu Quốc hội khóa XII) bày tỏ đồng tình với việc thu hồi đất cho mục đích an ninh, quốc phòng và lợi ích quốc gia. Còn các dự án phát triển kinh tế xã hội thì không nên đưa vào.
Thực tế nhiều năm qua, theo quan sát của GS Nguyễn Lân Dũng, hầu hết các vụ khiếu kiện của nông dân đều là do bồi thường không thỏa đáng, dân mất đường sinh sống về lâu dài, nhiều cán bộ giàu lên quá nhanh từ chuyện đất đai, nhiều vùng đất bờ xôi ruộng mật bị trưng thu (thay vì làm đường đến các vùng đất bạc màu, đất sét, đất cát, đất đá ong hóa- tức là đất không có độ phì nhiêu, lại toàn chiếm dụng các vùng đất canh tác màu mỡ cạnh mọi quốc lộ, thậm chí đến cả tỉnh lộ, huyện lộ...), nhiều dự án sử dụng sai mục đích hoặc để hoang hóa nhiều năm, nhiều vùng đất trở nên ô nhiễm nghiêm trọng cả một vùng rộng lớn do bị nhiễm chất thải công nghiệp. Ở Trung Quốc muốn lấy đất canh tác phải do Quốc vụ viện quyết định chứ không có chuyện chủ tịch tỉnh, chủ tịch huyện chuyển đối đất canh tác thành KCN, KCX, sân golf.
Ông Dũng cũng đưa ra lo ngại của một nhà khoa học: Nếu Việt Nam là 1 trong 5 quốc gia trên thế giới bị ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu thì khả năng đồng bằng Nam Bộ sẽ bị ngập hoặc mặn hóa. Khi đó, không phải chúng ta là nước thứ nhì về xuất khẩu gạo trên thế giới mà có thể thiếu đói. Cho nên, trong hiến pháp nên bỏ đi cụm từ “các dự án phát triển kinh tế-xã hội”. Ông Dũng phân tích: “Khái niệm "vì lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế-xã hội" trong bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 là quá mơ hồ và mở đường cho việc tái tiếp diễn các sai trái như trước đây, trong khi dân số đang tăng nhanh và còn cần gấp rút chuẩn bị đối phó với sự biến đổi khí hậu toàn cầu”.
Liên quan đến vấn đề đất đai, hiện nay chúng ta đang tiến hành sửa đổi Luật đất đai. Ông Thiều Đình Duy, Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tĩnh cho rằng, vấn đề hiện nay nóng lên gây khiếu kiện vượt cấp, đông người chính là xung quanh tranh chấp đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng. Luật Đất đai sửa đổi hiện nay là tăng cường đảm bảo sự minh bạch là điều kiện cấp thiết hiện nay. Người dân đa số đồng tình với quan điểm mới, những qui định mới trong Luật đất đai sửa đổi, để làm thế nào bảo đảm quyền lợi chính đáng của người dân và hạn chế được những tiêu cực trong đất đai. Vấn đề hiện nay người dân khiếu kiện và gây khó khăn trong đền bù, bàn giao đất đai do việc giao đất của chúng ta chưa thực sự công khai, minh bạch. Thậm chí, có nơi lợi dụng chính sách giao đất để trục lợi, cho nên người dân bất bình. Cho nên, Luật đất đai lần này tập trung sửa đổi và tăng cường sự minh bạch, nhất là việc giao đất cho các chương trình, dự án, rồi việc đấu thầu đất đai. Vấn đề qui hoạch giao đất minh bạch, cụ thể và coi trọng lợi ích của dân chừng nào thì sẽ yên dân chừng đó./.
2. Báo Nhân dân điện tử có bài Bồi thường oan sai cần quyết liệt hơn. Bài báo phản ánh: Nghị quyết số 388 được Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành năm 2003 về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra và Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2010 là bước tiến trong cải cách tư pháp. Tuy nhiên, trong quá trình xem xét, giải quyết việc bồi thường oan sai cần “cải cách” hơn.
Thực tế, nhiều vụ việc đã có quyết định bồi thường nhưng vẫn chưa áp dụng nghĩa vụ hoàn trả vì hoạt động tố tụng để xảy việc oan sai thường liên quan đến nhiều giai đoạn, nhiều người nên khó xác định. Hơn nữa một số cán bộ chưa thấy rõ trách nhiệm của cơ quan và người tiến hành tố tụng khi để xảy ra oan sai nên thái độ khi làm việc và bồi thường chưa đúng mức, gây căng thẳng không đáng có.
Có trường hợp, cơ quan có trách nhiệm bồi thường có biểu hiện né tránh, sợ trách nhiệm, đưa ra yêu cầu thiếu căn cứ buộc người bị oan phải chấp nhận mức bồi thường thấp hơn thiệt hại thực tế, gây phản ứng gay gắt của người bị oan, phải đưa ra Tòa để giải quyết.
Theo ông Trần Hữu Huỳnh, Trưởng ban Pháp chế, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), khi bị rơi vào vòng lao lý, nhiều chủ doanh nghiệp mất tất cả tài sản, sự nghiệp, gia đình ly tán. Việc Nhà nước bồi thường thiệt hại dù có đến đâu cũng không thể bù đắp những thiệt hại về cả về vật chất lẫn tinh thần mà người bị oan sai phải gánh chịu.
Để chứng minh được mình oan sai đã không dễ dàng nhất là oan sai trong quá trình tố tụng, nhưng qua “cửa ải” này rồi, đến công đoạn đòi bồi thường thiệt hại thì “người trong cuộc” lại gặp phải vô vàn những khó khăn, từ sự “vênh” nhau của luật pháp cho đến các thủ tục bồi thường quá rườm rà, nhiều phức tạp. Nhiều “khổ chủ” “nhẵn cổng” cơ quan có trách nhiệm bồi thường vẫn chưa giải quyết được vụ việc.
Để hướng dẫn cụ thể thi hành một số quy định của Luật TNBTCNN, giảm bớt các vụ việc oan sai chậm giải quyết bồi thường vì thiếu “hướng xử lý”, gần đây TANDTC, VKSNDTC và Bộ Tư pháp đã ký kết Thông tư liên tịch về vấn đề này trong hoạt động tố tụng dân sự, tố tụng hành chính.
Theo đó, nếu đương sự có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại và có thiệt hại thực tế phát sinh do việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của TAND gây ra thì Tòa án có trách nhiệm xem xét việc giải quyết bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại.
Ngoài ra, Tòa án cũng phải bồi thường trong trường hợp người đã tiến hành tố tụng ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác với biện pháp khẩn cấp tạm thời mà cá nhân, cơ quan, tổ chức có yêu cầu hoặc vượt quá yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Đối với hoạt động tố tụng hành chính thì ngoài trường hợp người đã tiến hành tố tụng tự mình ra quyết định áp dụng khi không có đơn yêu cầu của người yêu cầu biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Tòa án cũng phải bồi thường cho trường hợp người đã tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng với yêu cầu của đương sự.
Thiệt hại được bồi thường bao gồm thiệt hại do tài sản bị xâm phạm và thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút. Trong trường hợp tài sản bị xâm phạm là quyền sử dụng đất, nhà ở, công trình xây dựng và tài sản khác gắn liền với đất thì bên cạnh quy định tại Điều 45 Luật TNBTCNN, thiệt hại được bồi thường được xác định theo các quy định của pháp luật có liên quan.
Còn thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút được phân rõ thành của cá nhân và của tổ chức. Thu nhập thực tế của cá nhân được xác định như sau: Trường hợp trước khi xảy ra thiệt hại mà người bị thiệt hại có thu nhập ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động thì căn cứ vào mức lương, tiền công của tháng liền kề của người đó trước khi xảy ra thiệt hại làm căn cứ để xác định khoản thu nhập thực tế.
Trường hợp trước khi xảy ra thiệt hại mà người bị thiệt hại có việc làm và hàng tháng có thu nhập nhưng không ổn định thì lấy mức thu nhập trung bình của ba tháng liền kề trước thời điểm xảy ra thiệt hại làm căn cứ để xác định khoản thu nhập thực tế.
Trường hợp trước khi xảy ra thiệt hại mà người bị thiệt hại là nông dân, ngư dân, người làm muối, người trồng rừng, người làm thuê, người buôn bán nhỏ, thợ thủ công, lao động khác có thu nhập nhưng theo mùa vụ hoặc không ổn định thì lấy mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại tại địa phương; nếu không xác định được thu nhập trung bình thì lấy mức lương tối thiểu đối với cơ quan Nhà nước tại thời điểm giải quyết bồi thường làm căn cứ để xác định khoản thu nhập thực tế.
Thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của tổ chức được xác định trên cơ sở thu nhập trung bình của hai năm liền kề trước thời điểm xảy ra thiệt hại và được xác định theo báo cáo tài chính hợp pháp của tổ chức; trường hợp không có báo cáo tài chính, tổ chức có thể chứng minh thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút bằng các tài liệu, chứng cứ hợp pháp khác theo quy định của pháp luật có liên quan.
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Luật sư chỉ định: Cần cái tâm vì công lý. Bài báo phản ánh: Theo quy trình thông thường, sau khi xác định bị can, bị cáo thuộc trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa, cơ quan tố tụng sẽ ra văn bản gửi đoàn luật sư. Sau đó, đoàn luật sư sẽ phân công một văn phòng luật sư nào đó cử luật sư tham gia vụ án.
Tuy nhiên, nhiều luật sư cho biết hiện nay không ít trường hợp, để tiện việc, cán bộ tố tụng sẽ trực tiếp mời đích danh một luật sư quen biết nào đó tham gia tố tụng. Thậm chí, các thư ký tòa đều có một danh sách một số luật sư “chữa cháy” để gọi điện thoại nhờ vả vào “phút 89” nhằm tránh cho phiên xử hình sự bị hoãn.
Bằng “con đường tắt” này, cơ quan tố tụng dễ dàng được việc của mình, tránh được vi phạm tố tụng, lại không phải e ngại rằng luật sư mà mình mời sẽ gây ra “rắc rối”.
Luật sư Hoàng Cao Sang (Đoàn Luật sư TP.HCM) và một luật sư Đoàn Luật sư TP Đà Nẵng đều cho rằng cần phải xem lại chuyện “mời trực tiếp” này vì không đảm bảo được sự khách quan. “Trong vụ án, luật sư bào chữa là người gỡ tội, đối lập với các cơ quan buộc tội nên cần phải có sự độc lập nhất định. Cơ quan tố tụng trực tiếp mời luật sư, lại đứng ra thanh toán thù lao cho luật sư, dễ dẫn tới tình trạng luật sư cả nể, không muốn phản biện, đấu tranh. Mặt khác, thực tế này khiến cho luật sư giống người làm hợp đồng cho các cơ quan tố tụng chứ không phải bảo vệ thân chủ” - luật sư Sang nhận định.
Theo luật sư Nguyễn Tấn Thanh (Đoàn Luật sư TP.HCM), để nâng chất hoạt động bào chữa theo chỉ định, điều quan trọng nhất vẫn là cái tâm của người bào chữa. Bởi lẽ nghề luật sư không chỉ là cung cấp dịch vụ hỗ trợ pháp lý để lấy tiền của thân chủ mà còn mang trên mình một sứ mệnh cao quý là bảo vệ công lý, bảo vệ sự thật. Đã từng có những luật sư dù bào chữa miễn phí, bào chữa chỉ định vẫn rất nhiệt huyết, thậm chí đã từng minh oan được cho người vô tội.
Bên cạnh đó, luật sư Thanh cũng đề cập tới việc luật sư chỉ định cần phải có đủ thời gian để nghiên cứu hồ sơ vụ án, tiếp xúc thân chủ, thu thập chứng cứ… trước khi phiên tòa diễn ra. “Việc này sẽ tránh được tình trạng trống đánh xuôi, kèn thổi ngược do luật sư không kịp tiếp xúc với thân chủ, không hiểu được nguyện vọng hay quan điểm của họ. Ra tòa vẫn có nhiều trường hợp luật sư bào chữa xin giảm nhẹ hình phạt cho thân chủ trong khi thân chủ một mực kêu oan, không nhận tội. Hay ngược lại, thân chủ thừa nhận hành vi phạm tội, chỉ xin giảm nhẹ nhưng luật sư một mực kêu bị cáo không có tội” - luật sư Thanh nói.
Từ đó luật sư Thanh đề nghị luật nên quy định rõ thời điểm, thời hạn mà cơ quan tố tụng bắt buộc phải tìm luật sư chỉ định cho bị can, bị cáo trong tiến trình tố tụng. “Tốt nhất là ngay từ giai đoạn điều tra ban đầu, cơ quan điều tra cần phải nhanh chóng có văn bản gửi tới đoàn luật sư để chỉ định luật sư tham gia tố tụng. Sự tham gia của luật sư sẽ xuyên suốt cho đến khi kết thúc phiên tòa”.
II- THÔNG TIN KHÁC
1. Báo Hà Nội mới Online có bài Đo lường mức hài lòng về sự phục vụ của cơ quan hành chính: Không thể thiếu sự phối hợp của người dân. Bài báo phản ánh: Nhằm thực hiện đề án "Xây dựng phương pháp đo lường sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước", trong hai ngày 7 và 8-3, với sự hỗ trợ của dự án cải cách hành chính - UNDP, Bộ Nội vụ đã tổ chức điều tra xã hội học để đo lường sự hài lòng của người dân về dịch vụ hành chính công tại một số đơn vị của thành phố Hà Nội. Đây là đợt "ra quân" đầu tiên trong 6 tỉnh, thành phố làm điểm để Đoàn khảo sát của Bộ Nội vụ rút kinh nghiệm, triển khai hiệu quả hơn.
Phương pháp đo lường sự hài lòng của người dân và các tổ chức phải cho kết quả đánh giá khách quan, trung thực về sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước, do vậy, Bộ Nội vụ và Dự án CCHC - UNDP, Công ty Tư vấn Invest Cosult Group đã xây dựng phiếu điều tra xã hội học đối với 6 thủ tục hành chính (TTHC), gồm: Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; cấp giấy phép xây dựng nhà ở; chứng thực; cấp chứng minh nhân dân; cấp giấy khai sinh và đăng ký kết hôn. 6 địa phương được chọn thí điểm thực hiện phiếu điều tra là: Hà Nội, Lạng Sơn, Nghệ An, Gia Lai, Đồng Nai, Bạc Liêu.
Mục tiêu của việc khảo sát lần này nhằm đánh giá một cách khách quan chất lượng cung cấp dịch vụ hành chính công của các cơ quan hành chính. Sau khi khảo sát tại Hà Nội, đoàn sẽ tiếp tục khảo sát tại 5 tỉnh thí điểm còn lại là: Lạng Sơn, Nghệ An, Gia Lai, Đồng Nai và Bạc Liêu. Ông Phạm Minh Hùng, Phó Vụ trưởng Vụ CCHC (Bộ Nội vụ), Trưởng đoàn khảo sát cho biết: "Kinh nghiệm thực tế trong các lần khảo sát sẽ là kinh nghiệm để xây dựng và hoàn thiện bộ tiêu chí đo lường sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước. Thông qua đó, các cơ quan hành chính nhà nước có biện pháp cải thiện chất lượng phục vụ của mình. Do đó, rất cần sự phối hợp nhiệt tình của các cơ quan hành chính nhà nước cũng như của tổ chức, công dân để kết quả điều tra xã hội học chính xác, khách quan".
2. Báo Dân trí có bài Ngẫm về đường đi của một thông tư mà ... buồn!. Bài báo phản ánh: Từ bức thư của nhà báo Trần Đăng Tuấn gửi Bộ trưởng GDĐT, nếu suy nghĩ giản đơn thì thấy việc chậm ban hành thông tư hướng dẫn thực hiện Quyết định 60/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ là tắc trách, chậm trễ... thường diễn ra trong hoạt động của hầu hết bộ ngành.
Hoặc cũng có thể do vướng mắc một số khâu “kỹ thuật” như cách phản hồi của Bộ GD ĐT ngày 27/2 vừa qua. Nhưng suy nghĩ sâu xa hơn về mặt xã hội và cũng như trách nhiệm của người công chức tham gia công việc quản lý nhà nước, xây dựng pháp luật thì có rất nhiều điều cần bàn.
Trước hết, đó là biểu hiện của một lối làm việc quan liêu, xa rời thực tế, nhất là khi Việt Nam là nước xuất khẩu gạo mà vẫn để có những trẻ em phải chịu cảnh thiếu đói như vậy là sao? Đây cũng chính là câu hỏi mà Thủ tướng đã đặt ra với lãnh đạo ngành Lao động - Thương binh và Xã hội trong hội nghị trực tuyến của Bộ này sáng 7/1: “Bây giờ mình không thiếu gạo, mình cũng viện trợ nơi này nơi khác, vậy tại sao để con cháu mình trong cảnh cháu mang mì, cháu mang ngô, cháu mang khoai đến lớp, rồi phải lợp chòi nấu ăn?”
Cũng vì cách hành xử như vậy nên trong bức thư của mình, ông Trần Đăng Tuấn đã phải đặt ra câu hỏi rất đáng suy ngẫm: “… chúng ta liệu có thể nhìn vào mắt trẻ con mà không thấy ngượng?” Có điều gì thật đáng trăn trở từ lối quản lý chỉ có thể hiểu là vô cảm, lạnh lùng của một cơ quan nhà nước “của dân, do dân và vì dân” như vậy?
Xét về việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) thì việc Bộ GDĐT chậm ban hành thông tư hướng dẫn thực hiện Quyết định 60/2011/QĐ-TTg có thể coi là hành vi trái luật. Vì khoản 2, Điều 8 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 đã quy định: “Văn bản quy định chi tiết phải quy định cụ thể, không lặp lại quy định của văn bản được quy định chi tiết và phải được ban hành để có hiệu lực cùng thời điểm có hiệu lực của văn bản hoặc điều, khoản, điểm được quy định chi tiết”.
Quy định đó nhằm làm cho VBQPPL được ban hành kịp thời, chấm dứt tình trạng “chờ” văn bản đã kéo dài từ nhiều năm nay ở nước ta. Mọi người hẳn sẽ rất lấy làm lạ khi một quy định của luật rõ ràng đến như vậy, nhưng do “lờn thuốc” nên ai đó (hoặc nơi nào đó) dù không thực hiện rồi cũng chẳng phải chịu trách nhiệm gì. Đối chiếu với điều luật này thì rõ ràng ý thức chấp hành luật pháp của Bộ GDĐT phải được tăng cường nhiều hơn nữa.
Việc Bộ GDĐT chậm ban hành thông tư hướng dẫn thực hiện đã làm suy giảm hiệu lực, hiệu quả của VBQPPL nói riêng và hoạt động QLNN của bộ máy nhà nước nói chung, vì:
- Đã làm cho Quyết định 60/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ quy định có hiệu lực thi hành từ ngày 15/12/2011, nhưng đến nay vẫn chưa có đầy đủ hiệu lực trên thực tế.
- Sau sự kiện này có thể còn dẫn đến bao nhiêu hệ lụy khác như: Đời sống, sức khỏe của trẻ mầm non cả nước chịu ảnh hưởng xấu vì không được chăm sóc kịp thời do một chính sách đúng, đầy tính nhân văn không được thực hiện đến nơi đến chốn. Rồi bao nhiều chậm trễ, tắc ách công việc cũng như bao nhiêu thủ tục hành chính phải thực hiện hoặc thực hiện lại khi chậm ban hành thông tư. Rồi biết đâu có nhiều cơ quan, cá nhân do tiền thì có nhưng chậm có văn bản hướng dẫn thực hiện nên đã “xé rào” mà bị xử lý kỷ luật? Và cũng rất có thể tạo nên những sơ hở để kẻ xấu lợi dụng một chủ trương đúng mà làm việc sai quấy để tham nhũng, trục lợi …v.v và.. v.v...
Các cơ quan QLNN có thể đưa ra hàng tá lý do để biện minh cho việc làm chậm trễ, tắc trách của mình. Ví dụ như: thiếu nguồn kinh phí chăng? (ông Tuấn đã nêu trong thư); Bộ còn phải tập trung cho nhiều công việc quan trọng hơn (việc trong QĐ 60 ít quan trọng sao?); phải chờ đợi sự phối hợp của các bộ khác; hoặc do năng lực nghiên cứu, soạn thảo VBQPPL của đội ngũ chuyên viên (soạn thảo một bản thông tư khó đến thế sao?).. v.v.. và…v.v…
Nhưng những lý do trên chẳng mấy thuyết phục khi trách nhiệm công vụ cũng như ý thức tuân thủ chấp hành pháp luật của mỗi cơ quan, tổ chức, mỗi công chức chưa được đề cao. Chỉ cần vậy thôi thì thông tư chắc chắn sẽ được ban hành đồng thời với Quyết định như luật quy định hoặc chí ít cũng phải sớm hơn, chứ không đến nỗi kéo dài đến 14 tháng như đã diễn ra trong thực tế.
Một việc nhỏ mà làm không tốt thì nói gì đến những cải cách to lớn khác!. Thật xót xa cho một chủ trương bị thực hiện không tốt từ một việc ban hành một thông tư hướng dẫn! Từ những vụ việc đáng tiếc như thế, mong rằng các cơ quan nhà nước cần quan tâm đến việc chấn chỉnh công tác ban hành VBQPPL, đẩy mạnh cải cách thể chế hành chính và rộng hơn là đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính nhà nước.
3. Báo VietnamNet có bài Không phạt người đội mũ bảo hiểm “rởm”!. Bài báo phản ánh: “Chất lượng MBH rởm thuộc về cơ quan quản lý nhà nước. Không có chuyện phạt người đội MBH rởm kém chất lượng giống y hệt MBH. Sản xuất, tiêu thụ MBH giả thì phải bị phạt theo quy định”.
Bộ trưởng Bộ GTVT Đinh La Thăng cho biết xung quanh việc xử phạt đối với việc sản xuất, nhập khẩu, kinh doanh và sử dụng MBH rởm.
Trước đó, 4 Bộ KHCN, Công Thương, Công an và GTVT đã ký Thông tư liên tịch về sản xuất, nhập khẩu, kinh doanh và sử dụng MBH cho người đi mô tô, xe máy.
Trong đó, có quy định người đi đường khi đội mũ không đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật sẽ bị xử phạt như đối với hành vi không đội MBH hoặc đội mũ mà không cài quai đúng quy cách.
Tại dự thảo Nghị định về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt của Bộ GTVT, mức phạt cho hành vi trên là 100.000-200.000 đồng, dự kiến việc xử phạt sẽ được thực hiện khi Thông tư liên tịch trên có hiệu lực từ ngày 15/4.
Tuy nhiên, ngay khi thông tư vừa được ban hành thì đã gặp phải sự phản ứng dữ dội từ phía người dân.
Anh Nguyễn Mạnh Hùng (quận Long Biên, Hà Nội) cho biết, để người dân phải sống cùng hàng giả và dùng hàng giả là sự thiếu trách nhiệm của cơ quan quản lý.
Đại tá Trần Sơn Hà, Phó cục trưởng Cục CSGT Đường bộ - Đường sắt (Bộ Công an) cũng cho rằng, lực lượng công an không thể lập một biên bản vi phạm mà không có điều khoản. Trong khi, chỉ có Chính phủ mới được quy định hành vi vi phạm và chế tài xử phạt. Bên cạnh đó, Luật Hình sự có quy định xử lý hành vi làm hàng giả, hàng nhái và lực lượng QLTT phải làm việc này. Lực lượng công an không thể rải quân làm hết được. “Quy định về MHB không đúng tiêu chuẩn chất lượng 4 Bộ cần ngồi lại với nhau để bàn bạc kỹ. Vì trước năm 2008, MBH nhập khẩu về rất đẹp nhưng lại không có tem chứng nhận hợp quy theo quy định mới, vậy cần tính như thế nào?”, Đại tá Trần Sơn Hà phân vân.
Đồng tình với quan điểm trên, bà Nguyễn Thị Kim Thoa, Vụ trưởng Vụ pháp luật Hình sự- Hành chính (Bộ Tư pháp) băn khoăn: Để người tham gia giao thông phân biệt MBH thế nào là thật giả rất khó. Không phải cứ mua MBH đắt tiền là đảm bảo chất lượng và ngược lại. Thậm chí, đặt vấn đề xử lý mũ phải có đủ kết cấu ba phần cũng là phức tạp. Còn ông Nguyễn Văn Quyền, Phó tổng cục trưởng Tổng cục ĐBVN nhận định, quy định tại Thông tư liên tịch vừa ký kết giữa bốn Bộ chỉ phù hợp với các loại MBH được mua từ nay trở đi. Bởi, MBH được hiểu theo quy định mới này là MBH có dán tem hợp quy. Nhưng, trên thực tế hiện có hơn 30 triệu người đi mô tô, xe máy, trong đó chiếm đến hơn 90% là đội MBH, xuất xứ nhiều nơi, bao gồm cả mũ nhập khẩu ở giai đoạn trước chưa có quy định MBH phải dán tem hợp quy.Rồi, hàng loạt MBH từ các nước đưa sang viện trợ cũng không có tem nhưng mũ rất dày, đẹp. Vì vậy, nếu quy định xử phạt thì phải có lộ trình giải quyết hết số MBH này, không thể bảo người dân vứt hết MBH đang đội đi, dù nó đảm bảo chất lượng.
Trước ý kiến của các bên, Bộ trưởng Bộ GTVT Đinh La Thăng cho biết, quy định xử phạt người đội MBH không đủ 3 bộ phận gồm vỏ, lớp đệm hấp thụ xung động và quai đeo là bổ sung.
Tuy nhiên, người dân đội MBH không cần chứng minh mũ phải có tem hợp quy, cứ có 3 lớp như Nghị định quy định là được.
“Khi phạt người dân không có chuyện phạt người đội MBH rởm kém chất lượng giống y hệt MBH (có đầu đủ 3 lớp - PV). Còn sản xuất hàng giả, tiêu thụ hàng giả thì phải bị phạt theo quy định”, Bộ trưởng GTVT cho biết.