I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Về Góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992: Trang VnExpress có bài 'Hiến pháp cần quy định phương thức lãnh đạo của Đảng'. Bài báo đưa tin: GS.TS Nguyễn Minh Thuyết cho rằng, nếu không quy định rõ phương thức lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội của Đảng rất có thể dẫn đến xung đột quyền lực hoặc quyền lực của nhiều chủ thể mang tính hình thức.
Nội dung cơ bản của bất kỳ hiến pháp nào cũng là sự phân chia quyền lực. Ở các nước tuyên bố theo chế độ dân chủ (sau đây gọi tắt là các nước dân chủ), tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Điều này được quy định rõ trong hiến pháp một số nước, như: Pháp, Nga, Việt Nam, Trung Quốc… Hiến pháp một số nước khác tuy không viết như vậy nhưng quyền của nhân dân được thể hiện thông qua các quy định cụ thể về quyền lực.
Quy định về quyền lực trong hiến pháp ở hầu hết các nước dân chủ thể hiện quan điểm xử lý mối quan hệ giữa nhân dân với bộ máy nhà nước mà nhân dân quyết định thiết lập. Quyền của nhân dân được thể hiện ở quyền con người, quyền công dân; quyền phúc quyết trong trưng cầu ý dân về hiến pháp hoặc các vấn đề quan trọng khác; quyền bầu cử, ứng cử để thiết lập bộ máy nhà nước và cả ở những quy định về phân chia, giới hạn quyền lực của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trong sơ đồ lưỡng cực “nhân dân - nhà nước” này, các đảng chính trị thuộc phía nhân dân, sự dịch chuyển sang vị trí cầm quyền của những đảng cụ thể, về nguyên lý, chỉ là nhất thời.
Khác với các nước nói trên, hiến pháp các nước xã hội chủ nghĩa phải thể hiện được mối quan hệ giữa ba bên là nhân dân, Đảng Cộng sản cầm quyền và nhà nước. Hiến pháp Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu trước đây đều dành một điều quy định Đảng Cộng sản là “lực lượng lãnh đạo và dẫn dắt xã hội và là hạt nhân của hệ thống chính trị, của tất cả các tổ chức nhà nước và tổ chức xã hội” (Điều 6 Hiến pháp Liên Xô năm 1977).
Hiến pháp Trung Quốc chọn một giải pháp khác. Không có điều nào quy định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản nhưng Hiến pháp nước này dành hẳn một phần của chương 3 (Cơ quan nhà nước) quy định về Quân ủy trung ương, coi đó là một cơ quan trong bộ máy nhà nước tương tự các cơ quan khác như Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc (Quốc hội), Chủ tịch nước, Quốc vụ viện (Chính phủ) và chính quyền địa phương.
Tuy nhiên, tất cả các bản hiến pháp nói trên đều không quy định cụ thể phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương, với xã hội và các tổ chức xã hội như thế nào. Chọn giải pháp như Liên Xô và các nước Đông Âu, Hiến pháp Việt Nam năm 1980 có Điều 4 quy định: Đảng Cộng sản Việt Nam là “lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội”. Hiến pháp năm 1992 sửa thành: Đảng Cộng sản Việt Nam là “lực lượng lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội”.
Sau khi Hiến pháp được ban hành, Điều 4 trở nên có vị trí rất đặc biệt. Cả những lập luận chính thống trong nước cũng như thế lực thù địch hiện nay đều cho rằng chỉ có giữ được Điều 4 mới giữ được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thiết tưởng, đó là nhận thức mang nhiều định kiến. Bởi vì một khi Điều 2 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp (sau đây gọi tắt là Dự thảo) đã khẳng định “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt nam là nhà nước pháp quyền XHCN” và toàn bộ mô hình tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước đã thể hiện tính chất xã hội chủ nghĩa trong một bản Hiến pháp được toàn dân đồng tình qua trưng cầu ý dân rồi thì dù không có Điều 4 cũng không ai có thể xóa bỏ được chế độ XHCN, xóa bỏ được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản ở nước ta.
Thực tế lịch sử từ năm 1945 đến trước Hiến pháp năm 1980 đã cho thấy vai trò của Đảng trong xã hội và trong lòng dân như thế nào, dù không có một điều ràng buộc nào trong Hiến pháp. Ở nhiều nước phát triển hiện nay cũng vậy. Dù Hiến pháp không đề cập đến vai trò lãnh đạo của bất cứ đảng nào thì ở Mỹ cũng chỉ có 2 đảng Dân chủ và Cộng hòa thay nhau nắm quyền. Ở Nhật Bản, Đảng Dân chủ Tự do (LDP) nắm quyền ở phần lớn các thời kỳ suốt từ khi thành lập (năm 1955) đến nay. Giả sử ở những nước này, một đảng cánh tả có lên cầm quyền thì họ cũng phải tuân thủ Hiến pháp đã được toàn dân thông qua bằng trưng cầu ý dân.
Trong trường hợp xét thấy nhất thiết phải giữ Điều 4 như thể hiện trong Dự thảo thì Hiến pháp cần quy định rất rõ phương thức lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội của Đảng để tránh tình trạng mất cân đối hiện nay: Quyền và nghĩa vụ của nhân dân, quyền và nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước được quy định rất cụ thể, trong khi đó quyền và nghĩa vụ của lực lượng lãnh đạo cả nhân dân lẫn nhà nước là Đảng lại được quy định một cách khá sơ sài.
Những nguyên tắc đang dẫn dắt đời sống chính trị nước nhà như Hiến pháp thể chế hóa Cương lĩnh của Đảng (chứ không phải một khế ước xã hội), hệ thống văn bản quy phạm pháp luật thể chế hóa các nghị quyết của Đảng… và những quyền lực thực tế của Đảng như xác định phương hướng, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh - quốc phòng, bố trí nhân sự và lãnh đạo công tác của toàn bộ bộ máy nhà nước… cần được quy định trong Hiến pháp để đảm bảo “các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”, “Đảng chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”.
Không có những quy định này, rất có thể dẫn đến xung đột quyền lực hoặc quyền lực của nhiều chủ thể mang tính hình thức. Ví dụ, Hiến pháp quy định Chủ tịch nước “thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân” (khoản 5 Điều 93 Dự thảo) nhưng ai cũng biết người thực sự thống lĩnh các lực lượng đó là Bí thư Quân ủy Trung ương, tức Tổng bí thư Ban chấp hành trung ương Đảng.
Hiến pháp quy định Chủ tịch nước có quyền “đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Phó chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ” (khoản 3 Điều 93 Dự thảo), nhưng Chủ tịch nước không thể thực hiện được quyền này nếu không có nghị quyết của Bộ Chính trị hoặc Ban chấp hành trung ương Đảng.
Một ví dụ khác, Điều 114 Dự thảo quy định: “1. […] Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân cấp trên; Viện trưởng các Viện Kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. 2. Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân”. Tuy vậy, trên thực tế, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp còn phải chịu sự lãnh đạo của tổ chức Đảng cùng cấp.
Nếu Hiến pháp không quy định nguyên tắc song trùng lãnh đạo này thì khi nảy sinh sự khác biệt về quan điểm giữa Viện Kiểm sát nhân dân cấp trên với tổ chức Đảng ở địa phương về vấn đề nhất định, Viện Kiểm sát nhân dân địa phương sẽ không có căn cứ để “quyết” theo hướng nào.
Rõ ràng là tình trạng quy định một đằng làm một nẻo hoặc làm theo những quy định ngoài Hiến pháp và pháp luật cần sớm được chấm dứt, nếu không muốn phát triển trong xã hội thói quen “nói vậy mà không phải vậy”, khiến cho pháp luật và đạo lý bị khinh nhờn.
Hiến pháp là đạo luật cơ bản, có ảnh hưởng quyết định đến sự phồn vinh của đất nước và hạnh phúc của nhân dân; đồng thời cũng là thước đo trình độ phát triển của dân tộc. Mong rằng Dự thảo Hiến pháp sửa đổi sẽ được chuẩn bị một cách chu đáo nhất, nếu cần thì kéo dài thêm thời gian lấy ý kiến nhân dân để có một bản Hiến pháp thực sự văn minh, dân chủ, tạo bước ngoặt mới cho đất nước cất cánh bay lên.
2. Báo Nhân dân điện tử có bài Quảng Trị: Gần 80% cặp vợ chồng khác quốc tịch được cấp giấy chứng nhận kết hôn. Bài báo đưa tin: Thời gian qua, Hội Luật gia tỉnh Quảng Trị phối hợp với các cơ quan, ban ngành triển khai nhiều hoạt động nhằm giải quyết tình trạng sống chung với nhau nhưng không đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài ở 18 xã biên giới.
Hội Luật gia đã khảo sát thông tin từ người dân và cán bộ tư pháp, hộ tịch xã về thực trạng chung sống như vợ chồng nhưng chưa đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài ở các địa phương; xây dựng kế hoạch, tổ chức cho các đoàn trực tiếp về 14 điểm của 18 xã, thị trấn vùng biên để hỗ trợ pháp lý cho người dân và chính quyền cơ sở trong việc tuyên truyền, phổ biến một số quy định của pháp luật liên quan đến thủ tục, hồ sơ đăng ký kết hôn khác quốc tịch...
Nhờ vậy, đến nay tỷ lệ các cặp nam nữ chung sống như vợ chồng có yếu tố nước ngoài ở khu vực biên giới tỉnh Quảng Trị được cấp giấy chứng nhận kết hôn chiếm gần 80%. Qua đó, người dân có cơ hội nâng cao nhận thức, được giải quyết các vấn đề liên quan đến hộ khẩu, hộ tịch, khai sinh cũng như các chính sách xã hội...
3. Báo Điện tử Sài Gòn tiếp thị Media có bài TP.HCM: 30% công ty Luật không có doanh thu. Bài báo phản ánh: Chủ tịch liên đoàn Luật sư Việt Nam Lê Thúc Anh cho biết tại TP.HCM, có tới 30% công ty Luật không có doanh thu trong năm 2012, trong đó các công ty Luật bị sụt giảm doanh thu phần lớn là mô hình nhỏ hoặc văn phòng luật sư một người.
Trong khi đó, các hãng luật lớn lại diễn biến theo chiều ngược lại. Theo ông Trịnh Văn Quyết, tổng giám đốc công ty Luật SMiC – một hãng luật lớn tại Hà Nội, doanh thu của đơn vị này năm 2012 tăng cao do số lượng các vụ việc tranh chấp kinh tế gia tăng. “Các vụ tranh chấp kinh tế năm 2012 tập trung trong lĩnh vực bất động sản và tài chính với tính chất phức tạp, do vậy, những công ty Luật nhỏ khó có thể giải quyết được”, ông Quyết nhận định.
Theo ông Lê Thúc Anh, thực tế này đặt ra cho liên đoàn nhiều suy nghĩ về việc phát triển đội ngũ luật sư theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Theo kế hoạch, đến năm 2020, Việt Nam phải có đội ngũ luật sư đông về số lượng và mạnh về chất lượng để tham gia các vụ tranh tụng quốc tế, bảo vệ chủ quyền đất nước, cũng như hoạt động thương mại của các doanh nghiệp bên ngoài lãnh thổ. Hiện cả nước có khoảng 8.000 luật sư và vai trò của các luật sư trong việc tham gia phản biện chính sách, cải cách tư pháp, xây dựng pháp lý… còn khá mờ nhạt.
4. Trang PetroTimes có bài Có nên chấp nhận “Luật hôn nhân bình đẳng” ở Việt Nam?. Bài báo phản ánh: Chuyện thay đổi cách nhìn về cộng đồng người đồng tính, song tính, chuyển giới (LGBT) ở Việt Nam vẫn là một câu chuyện dài. Trong đó để Quốc hội thông qua “Luật Hôn nhân bình đẳng” là sự đấu tranh không mệt mỏi của cộng đồng LGBT và những người dị tính có người thân, bạn bè là người LGBT. Nhân sự kiện Bộ Tư pháp phối hợp cùng cơ quan Liên Hiệp Quốc tại Việt Nam tổ chức hội thảo “Kinh nghiệm quốc tế trong bảo vệ quyền của người đồng tính nam, đồng tính nữ, song tính và chuyển giới trong quan hệ hôn nhân và gia đình” vừa qua, xin góp thêm một cách nhìn về vấn đề này.
Thời gian qua, có nhiều cặp đồng tính nam, đồng tính nữ tổ chức đám cưới gây nhiều phản ứng trái chiều. Chính quyền thì cho là họ quy phạm pháp luật nên ngăn cấm; cư dân địa phương thì chê bai, dè bỉu vì cho rằng họ làm chuyện quái gở, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Đơn cử là giữa năm 2012, một cặp đồng tính nam tổ chức lễ cưới ở Hà Tiên nhận không ít phản hồi trái chiều trên các trang báo và cộng đồng mạng.
Hay chuyện ở một vùng quê thuộc tỉnh Cà Mau, một cặp đồng tính nữ N và Nh quen nhau, yêu nhau, mà theo N nói là “gặp Nh là tôi yêu thật lòng” và theo Nh là “tôi yêu thương N là tự nguyện, dù biết khó khăn trong tương lai nhưng không bỏ được”. Lễ cưới của hai người không dựng rạp, không trang hoàng hoa lá. Chính quyền biết được, mời hai cô và gia đình lên giải thích rằng: “Theo Khoản 5, Điều 10 Luật Hôn nhân gia đình, cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính”. Mẹ cô N mặt buồn hiu hỏi: “Nhưng trời đất cứ sinh ra người đồng tính thì biết làm thế nào hả chú?”.
Trên thực tế thì không chỉ ở Việt Nam mà nhiều nước khác trên thế giới, trong đó có những nước phát triển như Mỹ, Pháp thì việc thông qua Luật Hôn nhân đồng tính phải trải qua một hành trình dài. Chúng ta hẳn còn nhớ hình ảnh cách đây hơn một năm khi chính quyền bang New York, Mỹ thông qua “Luật Hôn nhân bình đẳng” thì có hàng trăm người LGBT xếp hàng dài chờ đăng ký kết hôn. Ngoài ra, còn hàng ngàn người LGBT cùng bạn bè, gia đình họ tổ chức diễu hành trên các đường phố ở New York mừng chính quyền thông qua dự luật mới chấp nhận các đám cưới của người LGBT.
Còn ở Pháp cách đây không lâu, sau khi chính quyền Tổng thống Francois Hollande đang chuẩn bị tranh luận dự luật hợp thức hóa hôn nhân đồng tính thì vấp phải sự phản đối của hàng trăm ngàn người ở thủ đô Paris và theo một cuộc thăm dò mới đây thì mức độ ủng hộ cho hôn nhân đồng tính ở Pháp giảm xuống xấp xỉ 50%. Để thấy rằng, những nơi ra đời bản hiến chương về quyền con người nhưng chính quyền và người dân không dễ gì chấp nhận luật hôn nhân đồng tính và dĩ nhiên những người phản đối là người dị tính.
Tuy nhiên, hiện nay đã có 20 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới. Bên cạnh đó ở nhiều nơi khác, hai người cùng giới có thể đăng ký hợp pháp sống cùng nhau dưới những hình thức có tên gọi khác như hôn nhân dân sự, quan hệ có đăng ký, quan hệ gia đình… với những quyền lợi tương tự như hôn nhân giữa hai người khác giới và đã có 44 quốc gia và vùng lãnh thổ đang áp dụng hình thức này. Nói về vấn đề này, có thể mượn phát biểu gần đây của Navy Pillay, Cao ủy Liên Hiệp Quốc về Quyền con người: “Đừng trừng phạt tình yêu, hãy trừng phạt bạo lực và lòng hận thù”.
Ở nước ta đã có những bước tiến đáng kể trong vấn đề này, trong đó có việc Bộ Tư pháp phối hợp cùng cơ quan Liên Hiệp Quốc tại Việt Nam tổ chức hội thảo “Kinh nghiệm quốc tế trong bảo vệ quyền của người đồng tính nam, đồng tính nữ, song tính và chuyển giới trong quan hệ hôn nhân và gia đình” cuối năm 2012 vừa qua, đã nhận được rất nhiều tham luận, ý kiến có giá trị.
Có thể nói: “Sau 13 năm tồn tại, Luật Hôn nhân và Gia đình cần có những thay đổi cơ bản thể hiện được nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ ở mức độ cao nhất các quyền con người, quyền công dân mà Việt Nam đã cam kết”, ông Dương Đăng Huệ, Vụ trưởng Vụ Pháp luật Dân sự - Kinh tế khẳng định tại hội thảo.
Chúng ta đang đòi hỏi quyền bình đẳng trong hôn nhân cho người đồng tính, song tính… cũng là vì người dị tính mà thôi. Vì nếu bản thân người đồng tính không được công khai giới tính, không là chính mình và phải sống khác mình, rồi kết hôn với người dị tính thì cuộc hôn nhân giữa họ là bi kịch cho cả hai.
II- THÔNG TIN KHÁC
Báo VietnamNet có bài Góc nhìn của Luật sư về ông Hoàng Hữu Phước. Bài báo phản ánh: Có thể không có một hình thức kỷ luật hay xử lý nào đối với đại biểu Hoàng Hữu Phước. Tuy nhiên, áp lực dư luận trong mấy ngày qua cũng là một “hình phạt” rất nặng nề với vị đại biểu này.
Mấy ngày qua, câu chuyện ứng xử của đại biểu quốc hội Hoàng Hữu Phước đã làm nóng dự luận, gây áp lực rất lớn cho vị đại biểu này. Cuối cùng đại biểu Phước cũng đã có lời xin lỗi trực tiếp và gián tiếp đến người được cho là nạn nhân bởi những phát ngôn “chưa chuẩn” của mình. Qua đây, cũng rất nhiều ý kiến cho rằng hành vi của đại biểu Hoàng Hữu Phước có dấu hiệu hình sự, tức có hành vi xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của người khác. Hành vi này có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điều 121 Bộ luật Hình sự về Tội làm nhục người khác. Vậy như thế nào được xem là làm nhục người khác và khi nào sẽ bị truy cứu về hành vi này?
Về mặt khách quan, hành vi của tội phạm là xúc phạm nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự của người khác hoặc làm mất uy tín của người đó đối với xã hội, cơ quan hoặc gia đình của người đó. Hành vi này được thực hiện bằng lời nói, viết, vẽ hay những hành động khác …Tuy nhiên, để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi này cần đánh giá mức độ nghiêm trọng của nó, nếu không đến mức nghiêm trọng thì không truy cứu. Mức nghiêm trọng được đánh giá dựa vào các yếu tố như dư luận xã hội không tốt về hành vi đó, vị trí xã hội của người bị hại, thời gian thực hiện hành vi, thái độ của người thực hiện hành vi …
Trong vụ việc này, vị trí và vai trò xã hội của người bị hại (đại biểu Dương Trung Quốc) và thái độ, nhận thức của người có hành vi (đại biểu Hoàng Hữu Phước) là vấn đề cần được xem xét và đánh giá một cách thận trọng nhất. Tiếp đến là sự bất đồng về quan điểm, chính kiến giữa hai đại biểu này xảy ra trong một thời gian dài cũng là vấn đề quan trọng được xem xét kế tiếp.
Có thể không có một hình thức kỷ luật hay xử lý nào đối với đại biểu Hoàng Hữu Phước. Tuy nhiên, áp lực dư luận trong mấy ngày qua cũng là một “hình phạt” rất nặng nề với vị đại biểu này. Mong rằng, những hình ảnh, lời nói “lăng mạ” lẫn nhau như thế sẽ không còn tồn tại ở chốn “quan trường”.