I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Thiếu quy định trong ủy quyền THA. Bài báo phản ánh: Trong thực tế, có nhiều người phải hoặc được thi hành án (THA) vì các lý do khách quan không thể tự mình thực hiện các quyền, nghĩa vụ về THA nên ủy quyền cho người khác thay mình thực hiện.
Tuy nhiên, có không ít trường hợp đương sự không thể ủy quyền được vì pháp luật chưa quy định cụ thể nên dẫn đến tình trạng áp dụng thiếu thống nhất giữa các cơ quan THA. Chẳng hạn, TAND một quận ở TP.HCM vừa qua đã tuyên trả lại tiền, tài sản cho bị cáo A. Tuy nhiên, bị cáo đang phải chấp hành án tại trại giam nên không thể tự mình đến nhận lại tiền, tài sản được, cũng không thể ra ngoài thực hiện việc ủy quyền. Nếu không mời được những người có chức năng vào tận trại giam thực hiện công chứng thì đương sự chỉ có thể lập giấy ủy quyền và xin xác nhận của trại giam về việc ủy quyền của mình để nhận lại tài sản. Trong trường hợp này, một số cơ quan THA dân sự không chấp nhận văn bản ủy quyền trên của đương sự. Tuy nhiên, cũng không ít cơ quan đồng ý trả lại một số tài sản, giấy tờ để tránh việc THA tồn đọng kéo dài.
Một chấp hành viên Cục THA dân sự TP.HCM giải thích, sở dĩ có sự áp dụng thiếu thống nhất như trên là do pháp luật không quy định cho trại giam được quyền xác nhận chữ ký của người đang bị giam giữ. Việc chấp nhận giấy ủy quyền mà đương sự đang bị giam giữ do trại giam xác nhận là sự linh động của chấp hành viên nhằm giải quyết đối với tài sản có giá trị nhỏ hoặc giấy tờ tùy thân...
Ngoài trường hợp nói trên thì việc lập giấy ủy quyền THA có xác nhận của UBND cấp xã hay phải lập hợp đồng ủy quyền có công chứng cũng có hai luồng quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng người phải THA chỉ cần lập giấy ủy quyền được UBND cấp xã xác nhận thì cơ quan THA phải chấp nhận. Tuy nhiên, cũng có quan điểm khác lại cho rằng UBND cấp xã không có thẩm quyền xác nhận giấy ủy quyền THA. Do vậy, giấy ủy quyền được UBND cấp xã xác nhận không đủ căn cứ pháp lý để phát sinh hiệu lực mà phải là hợp đồng ủy quyền có công chứng... Do có những quan điểm như trên nên dẫn đến việc mỗi nơi lại áp dụng một kiểu.
2. Báo Pháp luật và Xã hội có bài Khó đôn đốc khi phía phải thi hành án dân sự là UBND. Bài báo phản ánh: Một trong các khó khăn được Cục Thi hành án dân sự (THADS) Hà Nội tổng kết là việc cơ quan THADS có trách nhiệm đôn đốc thi hành phần quyết định hành chính, hành vi hành chính trong bản án hành chính.
Dẫn đến, trong những trường hợp chủ thể phải thi hành án là UBND, Chủ tịch UBND thì cơ quan thi hành án rất “lúng túng” vì trong THADS, cơ quan thi hành án có trách nhiệm báo cáo và chịu sự chỉ đạo của Ban chỉ đạo thi hành án cùng cấp mà Chủ tịch UBND lại là Trưởng ban chỉ đạo thi hành án! Bên cạnh đó, qui trình bổ nhiệm chức danh lãnh đạo của cơ quan thi hành án phải chịu sự chỉ đạo và quyết định của UBND.
Thành thử, có trường hợp UBND phải nộp án phí thì cơ quan THADS tự bỏ tiền ra nộp thay bởi tâm lý e ngại, hoặc sắp đến giai đoạn tái bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo. Do đó, trong thực tế, việc đôn đốc thi hành án hành chính chưa đảm bảo tính khả thi trong thực tế, cũng như chưa đảm bảo tính khách quan. Ngoài ra, pháp luật chưa có qui định cụ thể về trình tự, thủ tục đề nghị thi hành án hành chính, đôn đốc thi hành án hành chính, dẫn đến các cơ quan thi hành án phải áp dụng tương tự pháp luật và viện dẫn các qui định của Luật THADS, không phù hợp với tính chất của thi hành án hành chính, hiệu quả thi hành pháp luật không cao.
Cũng theo Cục THADS Hà Nội, việc xử lý một số loại vật chứng, tài sản thi hành án gặp không ít khó khăn. Cụ thể, với những tài sản thu được là tài sản không được phép lưu thông ở Việt Nam như xe ô tô có BKS của Lào hoặc Campuchia được tạm nhập, chưa đăng ký, cấp biển số theo qui định nên không được phép lưu hành. Do đó, những xe này cũng không thể định giá, phát mại theo qui định của Luật THADS. Hay nhiều vụ Tòa án tuyên tạm giữ các loại ngoại tệ không thông dụng như Kíp (Lào), Riel (Campuchia), Peso (Philippin), đô la (Đài Loan), Phrăng (Thụy Sĩ)… để đảm bảo thi hành án. Thực tế, việc qui đổi các ngoại tệ này sang Việt Nam đồng để nộp ngân sách Nhà nước gặp nhiều khó khăn. Mặc dù các cơ quan THADS đã liên hệ với các ngân hàng để chuyển đổi ngoại tệ nhưng các ngân hàng và các tổ chức tín dụng có chức năng thu mua ngoại tệ đều không thu mua với lý do những loại ngoại tệ này chủ yếu là các loại ngoại tệ không tự do chuyển đổi, số lượng phải xử lý lại không nhiều.
Pháp luật hiện hành qui định điều kiện, được xét miễn giảm thi hành án là người phải thi hành án đã thi hành được ít nhất bằng 1/20 khoản phải thi hành, nhưng giá trị không được thấp hơn mức án phí không có giá ngạch. Tuy nhiên, trên thực tế, 1/20 khoản phải thi hành vẫn là số tiền lớn với nhiều trường hợp, nhất là các tội phạm ma túy, lang thang, không việc làm, gia đình không hỗ trợ nên số lượng án tồn với những lĩnh vực này ngày càng nhiều. Do đó, nhiều chấp hành viên cho rằng, cần giảm điều kiện để xét miễn, giảm như chỉ cần thi hành được 1/30 hoặc 1/50 số tiền phải thi hành là đủ điều kiện.
Ngoài ra, những trường hợp tài sản bán đấu giá nhưng ế ẩm, không có người mua cũng khiến việc thi hành án bị kéo dài vì phải bán đi bán lại. Hay trong các trường hợp đã bán đấu giá thành, số tiền thu được từ việc đấu giá do các tổ chức đấu giá chuyển sang được các cơ quan thi hành án thanh toán cho người được thi hành án trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được tiền. Thế nhưng, trên thực tế có nhiều trường hợp, do nhiều nguyên nhân mà sau khi bán đấu giá tài sản thành công lại không thể giao được tài sản cho người trúng đấu giá. Trong khi đó, tiền bán đấu giá đã chi trả cho người được thi hành án, dẫn tới việc người trúng đấu giá gửi nhiều đơn thư khiếu nại, tố cáo.
Cục THADS Hà Nội cũng cho rằng, công tác thi hành án còn gặp khó khăn do chưa có sự phối kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các cơ quan. Ví dụ, nhiều trường hợp CQCA chưa lập phương án bảo vệ và không bố trí được lực lượng để tham gia bảo vệ cưỡng chế thi hành án, khiến các vụ việc thi hành án có giá trị lớn chưa được thi hành dứt điểm. Pháp luật qui định doanh nghiệp có quyền đăng ký giải thể, hợp nhất hoặc tuyên bố phá sản, do đó nhiều doanh nghiệp tự động tháo bảng hiệu ngừng hoạt động, không để lại “dấu vết” gì, trừ khoản phải thi hành án, sau đó lại thành lập doanh nghiệp mới mà không có chế tài nào (năm 2012, có 79 doanh nghiệp phải thi hành án “mất tích” kiểu này).
3. Báo Dân trí có bài Công dân bức xúc vì thái độ bao che của Cục Thi hành án Hải Dương. Bài báo phản ánh: Sau khi Tổng cục thi hành án dân sự (THADS) chỉ đạo, Cục THADS tỉnh Hải Dương đã tiếp xúc với anh Đào Thanh Long giải quyết đơn khiếu nại liên quan đến việc đưa 131m2 đất vào diện thi hành án có dấu hiệu bất thường của Chi cục THADS thị xã Chí Linh.
Nhận được công văn của báo Dân trí chuyển đơn của anh Đào Thanh Long, trú tại phường Phả Lại, thị xã Chí Linh phản ánh việc Chi cục THADS thị xã Chí Linh đưa mảnh đất của anh Long được bố mẹ cho tặng từ năm 2003 vào diện thi hành bản án số 01/DSST ngày 05/3/2012, do bà Vũ Hạnh Lê (mẹ anh Long) không hoàn trả ông Vũ Thành Độ khoản tiền gần 1,1 tỷ đồng. Ngày 10/1/2013, Tổng cục THADS - Bộ Tư pháp đã có công văn chỉ đạo số 64/TCTHADS - GQKNTC, yêu cầu Cục trưởng Cục THADS tỉnh Hải Dương kiểm tra nội dung đương sự, giải quyết và chỉ đạo giải quyết đúng thẩm quyền, đúng quy định của pháp luật.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Tổng cục THADS, ngày 17/1/2013, Cục THADS tỉnh Hải Dương đã có buổi làm việc với anh Đào Thanh Long và chị gái Đào Thị Loan để giải quyết đơn khiếu nại của anh Đào Thanh Long liên quan đến việc Chi cục THADS thị xã Chí Linh đưa 131m2 đất tại phường Phả Lại vào diện thi hành án với nhiều dấu hiệu bất thường, xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Làm việc với Cục THADS tỉnh Hải Dương, anh Đào Thanh Long đề nghị làm rõ 4 nội dung đã nêu trong đơn gửi báo Dân trí và các cơ quan chức năng bao gồm: Xem xét lại việc đưa 131m2 đất mà anh Long được bố me tặng để thi hành nghĩa vụ trả nợ cho bà Vũ Hạnh Lê; yêu cầu ông Vũ Thành Độ trả lại Giấy chứng nhận QSDĐ; làm rõ việc Chi cục THADS thị xã Chí Linh tiến hành đo đạc, xây dựng hồ sơ cưỡng chế không thông báo cho đối tượng bị thi hành án biết; trong quá trình tổ chức Thi hành án, vì sao Chi cục THADS Thị xã Chí Linh đưa chị Đào Thị Loan vào diện người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan?
Đặt nhiều kỳ vọng, nhưng anh Đào Thanh Long chỉ nhận được những câu trả lời không thấu tình đạt lý từ Cục THADS tỉnh Hải Dương. Về việc đưa mảnh đất 131m2 tại phường Phả Lại mà ông Đào Quang Mạnh và bà Vũ Hạnh Lê tặng cho anh Long để thi hành nghĩa vụ trả nợ của bà Vũ Hạnh Lê, Cục THADS tỉnh Hải Dương cho rằng phần đất này anh Đào Thanh Long đã được bố mẹ làm văn bản thỏa thuận tặng, nhưng chưa đi đăng ký quyền sử dụng đất nên tài sản vẫn là tài sản chung của bố mẹ anh Long.
Về nội dung yêu cầu ông Vũ Thành Độ trả lại Giấy chứng nhận QSDĐ cho gia đình anh Đào Thanh Long theo bản án số 01/DSST ngày 05/3/2012, Cục THADS tỉnh Hải Dương cho biết ngày 15/11/2012, Chi cục THADS Thị xã Chí Linh đã ban hành Quyết định thi hành án buộc ông Vũ Thành Độ trả bà Vũ Hạnh Lê Giấy chứng nhận QSDĐ, nhưng cho đến nay ông Vũ Thành Độ chưa thực hiện nghĩa vụ trên.
Liên quan đến nội dung khiếu nại Chi cục THADS thị xã Chí Linh tiến hành đo đạc không thông báo cho người thuộc diện thi hành án biết, Cục THADS tỉnh Hải Dương trả lời như sau: Trước khi tổ chức cưỡng chế, chấp hành viên đã phối hợp với Viện KSND thị xã Chí Linh, UBND phường, Công an phường, cán bộ Tư pháp, Trưởng khu dân cư Thạch Thủy để tiến hành xác minh và lập biên bản. Vào thời điểm kiểm đếm, bà Vũ Hạnh Lê khóa cửa nhà nên đoàn chỉ tiến hành đo đạc bên ngoài trước sự chứng kiến của bà Đồng Thị Là, là người đại diện cho hộ gia đình giáp ranh. Tuy nhiên, trên thực tế bà Lê và anh Đào Thanh Long không nhận được bất cứ thông báo nào của đơn vị thi hành án.
Về việc đưa chị Đào Thị Loan (chị gái anh Long) vào diện người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, Cục THADS tỉnh Hải Dương cho rằng chị Loan là người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Đào Quang Mạnh và bà Vũ Hạnh Lê nên việc đưa vào là đúng theo quy định pháp luật, mặc dù 131m2 đã được ông Đào Quang Mạnh và bà Vũ Hạnh Lê làm thủ tục cho tặng anh Đào Thanh Long.
Bất bình với cách giải thích của đại diện Cục THADS tỉnh Hải Dương đưa ra, anh Đào Thanh Long đã từ chối ký biên bản làm việc vì cho rằng Cục THADS tỉnh Hải Dương cố tình bao che sai phạm của cấp dưới. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, anh Đào Thanh Long tiếp tục đề nghị các cơ quan chức năng làm rõ dấu hiệu khuất tất trong vụ đưa 131m2 đất vào diện thi hành bản án số 01/DSST ngày 05/3/2012.
II- THÔNG TIN KHÁC
Báo Nhân dân điện tử có bài Nam Định vẫn loại bằng ĐH tại chức khỏi thi tuyển công chức xã, phường. Bài báo phản ánh: Nam Định tái khẳng định, loại bằng ĐH tại chức trong thi tuyển công chức là do tính chất đặc thù của tỉnh và nhu cầu của từng đơn vị, địa phương trong đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng công chức.
Trong buổi làm việc với Bộ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Thái Bình sáng 20-1 tại thành phố Nam Định, ông Trần Tất Tiệp, Giám đốc Sở Nội vụ tỉnh Nam Định khẳng định về vấn đề này và cho biết địa phương đã thực hiện từ năm 2008 theo Nghị quyết 74/2007 của Hội đồng Nhân dân tỉnh khóa XVI.
Đã có nhiều ý kiến trái chiều bàn luận chung quanh quyết định “cứng” của tỉnh vì cho rằng phân biệt bằng cấp là “không công bằng”, là “vi hiến”, làm khó cho công tác đào tạo, tuyển sinh của các trường ĐH hệ dân lập và hệ tại chức trong bối cảnh Nhà nước chủ trương xã hội hóa giáo dục và xây dựng xã hội học tập.
Để bảo lưu quan điểm này, ông Lã Mạnh Doanh, Phó Giám đốc Sở Nội vụ tỉnh Nam Định cho rằng: Việc đề ra tiêu chí trong thi tuyển công chức, nhất là công chức ở cơ sở cao hơn qui định của Bộ Nội vụ là do tính chất đặc thù của tỉnh và nhu cầu của từng đơn vị, địa phương trong đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng công chức.
Ông Doanh thông tin thêm, từ năm 2008 đến nay, tỉnh Nam Định đã tuyển dụng được gần 400 công chức cấp xã có bằng ĐH hệ chính qui, riêng năm 2012 tuyển dụng được 98 công chức cấp xã có bằng ĐH hệ chính qui.