I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật Việt Nam có bài THADS vượt chỉ tiêu về tiền và việc. Bài báo đưa tin: Tổng cục thi hành án dân sự Bộ Tư pháp chiều nay tổ chức Hội nghị triển khai công tác Thi hành án dân sự năm 2013. Tham dự có thứ trưởng Bộ tư pháp Nguyễn Đức Chính, thứ trưởng Bộ tư pháp Phạm Quý Tỵ và đại diện các đơn vị trực thuộc Bộ, các Cục thi hành án dân sự.
Điểm lại công tác THADS năm 2012, ông Nguyễn Thanh Thủy - Phó Tổng cục trưởng Tổng cục THADS, cho biết, tổng số việc phải thi hành án của toàn ngành là gần 643.000 việc, tăng 1,6% so với năm trước. Một số địa phương có tỷ lệ phân loại án có điều kiện thi hành chiếm tỷ lệ cao như: Lai Châu (89,88%), Quảng Trị (88,68%), Hà Tĩnh (86,4%), các cơ quan thi hành án quân đội (83,96%)...
Trên 395.000 việc được thi hành xong, tăng 4,05% so với năm 2011, đạt tỷ lệ 88,58%, vượt so với chỉ tiêu Bộ giao. Khoảng 230.000 việc phải chuyển sang năm 2013, giảm 2,08% so với cùng kỳ năm trước.
Mặc dù, so với chỉ tiêu Bộ Tư Pháp giao năm 2012, kết quả thi hành án của toàn Ngành vượt 3,58% về việc và 6,98% về tiền, song kết quả thi hành án của một số địa phương đạt được còn thấp, chưa hoàn thành chỉ tiêu giảm án chuyển kỳ sau (mới đạt 2,8% so với 10% được giao).
Năm nay, ngành THADS xác định tiếp tục phát huy kết qủa đã đạt được, khắc phục những tồn tại, bám sát Chương trình, Kế hoạch công tác của Bộ Tư pháp và tập trung thực hiện tốt hơn những nhiệm vụ trọng tâm của ngành.
Cũng tại Hội nghị, bà Vũ Thị Kim Dung, Vụ trưởng Vụ Giải quyết khiếu nại, tố cáo - Tổng cục Thi hành án dân sự đề xuất: “Từ kinh nghiệm thành lập Ban Chỉ đạo Epco - Minh Phụng có thể cân nhắc việc thành lập ở cấp T.Ư Ban chỉ đạo để chỉ đạo những vụ việc thi hành án lớn, phức tạp, có tầm cỡ như vụ Vinashin”.
2. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Văn bản bất cập - lỗi ở cán bộ pháp chế. Bài báo phản ánh: Trước tình trạng có quá nhiều văn bản pháp luật ban ra không thực hiện được, chồng chéo, hay gặp phải sự phản đối của dư luận, một nguyên nhân không kém phần quan trọng được chỉ ra đó là do trình độ, năng lực chuyên mô, kinh nghiệm thực tiễn, kỹ năng trong nghiên cứu, soạn thảo pháp luật của đội ngũ công chức của các bộ, ngành còn nhiều hạn chế, nhất là đội ngũ công chức làm công tác pháp chế.
Một văn bản quy phạm pháp luật thực sự phù hợp với thực tế, được đại đa số người dân đồng thuận đòi hỏi ngay từ khâu soạn thảo đã phải được làm cẩn trọng, thấu đáo, có lắng nghe ý kiến đa chiều từ các nhà khoa học đến những người thực thi. Văn bản quy định chi tiết có chất lượng không chỉ có tính khả thi cao, dễ áp dụng mà còn dự liệu được những tình huống phát sinh trên thực tế như người ta vẫn nói văn bản có sức sống ổn định, lâu dài mà không phải mới ban hành đã sửa đổi.
Theo đánh giá của Chính phủ, so với những năm trước đây, nhìn chung chất lượng văn bản quy định chi tiết đã dần được nâng cao. Việc xây dựng, ban hành văn bản thực hiện đúng thẩm quyền, tuân thủ đày đủ trình tự, thủ tục và hình thức quy định, bảo đảm tính khả thi, minh bạch, công khai hơn. Đa số văn bản không còn tình trạng quy định chung chung mang tính nguyên tắc khó thực hiện hoặc giao lại cho các Bộ tiếp tục ban hành thông tư. Về kỹ thuật không còn tình trạng chép lại các nội dung của luật, pháp lệnh.
Công tác thẩm định, một trong những khâu quan trọng, mang tính “gác cửa” về pháp lý bảo đảm cho văn bản tính hợp hiến hợp pháp cũng được đặc biệt coi trọng. Công tác thẩm định của Bộ Tư pháp, thẩm tra của Văn phòng Chính phủ đã được tăng cường, chất lượng thẩm định, thẩm tra được nâng lên.
Đối với những dự thảo văn bản có nội dung phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực hoặc do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo, việc thâm định đều thực hiện theo cơ chế Hội đồng với sự tham gia của nhiều nhà quản lý, các chuyên gia, các nhà khoa học thuộc nhiều ngành, lĩnh vực có liên quan để đưa ra ý kiến phản biện của tập thể, kiểm tra chặt chẽ, giúp cơ quan soạn thảo chỉnh lý, hoàn thiện bảo đảm chất lượng dự thảo trước khi trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Những năm gần đây, công tác kiểm tra, rà soát và xử lý VBQPPL của Chính phủ cũng như ở từng Bộ, ngành đã được kiện toàn một bước, dần vào nề nếp, trở thành nhiệm vụ thường xuyên và đạt kết quả tích cực. Qua công tác kiểm tra, rà soát, nhìn chung các văn bản quy định chi tiết đều bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất đồng bộ với hệ thống pháp luật. Cơ bản không còn để xảy ra tình trạng, văn bản quy định chi tiết thi hành có nội dung không phù hợp với luật, pháp lệnh.
Bên cạnh những kết quả đạt được, chất lượng nhiều văn bản còn có vấn đề, thậm chí nhiều văn bản bị dư luận xã hội kịch liệt phản ứng có nhiều nguyên nhân, liên quan đến nhiều công đoạn. Tuy nhiên, một nguyên nhân không kém phần quan trọng được chỉ ra đó là do trình độ, năng lực chuyên mô, kinh nghiệm thực tiễn, kỹ năng trong nghiên cứu, soạn thảo pháp luật của đội ngũ công chức của các bộ, ngành còn nhiều hạn chế, nhất là đội ngũ công chức làm công tác pháp chế.
Đến nay, ngoài Bộ Tư pháp, các Bộ, cơ quan ngang Bộ đã thành lập tổ chức pháp chế, trong đó 18/21 Bộ, cơ quan ngang Bộ có Vụ pháp chế; ở các Tổng cục và tương đương, các Cục trực thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ có tổ chức pháp chế chuyên trách (Vụ, Phòng pháp chế) hoặc giao công tác pháp chế cho văn phòng làm đầu mối thực hiện. Số lượng cán bộ, công chức, viên chức làm công tác pháp chế ở trung ương có khoảng 500 người, trong đó 480 cán bộ chuyên trách.
Tuy nhiên, với yêu cầu trong giai đoạn hiện nay, đội ngũ này vẫn còn mỏng, chưa đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi tới đây phải tăng cường cả số và chất lượng, đặc biệt phải khắc phục tư duy pháp lý thuần tuý, bắt kịp với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Cùng với sự quan tâm của lãnh đạo Bộ, ngành, đề cao vai trò của pháp chế và đầu tư thỏa đáng cho đội ngũ làm công tác này chính là nguồn lực quan trọng để góp phần làm tốt công tác văn bản.
II- THÔNG TIN KHÁC
1. Báo Sài Gòn tiếp thị Media có bài Doanh nghiệp FDI bỏ trốn: luật phủ được tới đâu?. Bài báo phản ánh: Ngày càng nhiều doanh nghiệp Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) bỏ trốn để lại gánh nặng cho cơ quan quản lý, người lao động, các đối tác người Việt Nam… Có luật sư cho rằng, do “mình đang quản lý theo kiểu nắm dao đằng lưỡi nên phần thiệt thuộc về mình”.
Ông Lê Việt Dũng, phó giám đốc sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Bình Dương kể, mới đây một doanh nghiệp FDI bỏ trốn, giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp chỉ khoảng 300 triệu đồng, trong khi chỉ tính nợ lương công nhân đã lên đến 900 triệu đồng, nợ các nhà cung cấp 12 tỉ đồng. Hội đồng định giá của sở Tư pháp tổ chức đấu giá để lấy tiền chi trả, nhưng không ai quan tâm do tình hình kinh doanh nói chung đang bị đình đốn.
Theo luật sư Trần Đức Phượng, công ty Luật Hợp Việt, trong trường hợp này, tuỳ từng trường hợp các chủ nợ có thể khởi kiện để đòi nợ hoặc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục tuyên bố doanh nghiệp phá sản. Theo luật pháp Việt Nam, đối với doanh nghiệp có người đại diện theo pháp luật bỏ trốn thì vẫn xác định doanh nghiệp đó vẫn đang tồn tại ở địa chỉ cuối cùng trong hồ sơ đăng ký đầu tư, kinh doanh. Vì vậy, toà án vẫn thụ lý giải quyết vụ án và tiến hành các thủ tục tống đạt để xét xử vắng mặt theo quy định của bộ luật Tố tụng dân sự cho dù không tìm thấy người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, thực tế khi khởi kiện những doanh nghiệp này tại toà án cho thấy có nhiều vụ án phức tạp, đương sự bất hợp tác nên cơ quan tố tụng thường vi phạm thời gian chuẩn bị xét xử hoặc tìm cách tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án. Đây là nguyên nhân chính của việc khó xử lý hiện nay.
Bên cạnh đó, khi đầu tư vào Việt Nam, nhà đầu tư phải thực hiện việc góp vốn đầy đủ theo quy định và nhà đầu tư chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn góp. Trách nhiệm cá nhân nhà đầu tư chỉ được đặt ra như trường hợp việc góp vốn điều lệ không đầy đủ. Tuy nhiên, việc góp vốn của nhà đầu tư do cơ quan quản lý nhà nước quản lý. Mặt khác, pháp luật Việt Nam (đặc biệt là pháp luật Tố tụng dân sự) còn thiếu các quy định để thực hiện xác định trách nhiệm cá nhân của nhà đầu tư đối với bên thứ ba (như chủ nợ) trong trường hợp này. Do vậy, trên thực tế việc xử lý các doanh nghiệp có vốn ảo chưa có giải pháp hữu hiệu.
Do những quy định nêu trên nên đối với các khoản nợ tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp thì rất khó khăn để thu hồi. Nguyên nhân chính là cơ quan bảo hiểm nhà nước thiếu trách nhiệm, năng lực yếu trong việc thu các khoản tiền nợ và một phần do pháp luật còn bất cập, thiếu các quy định cho người lao động bảo vệ quyền lợi của mình.
2. Báo Công an nhân dân Online có bài Đào tạo liên thông lên đại học: Không thể “vàng thau lẫn lộn”. Bài báo phản ánh: Vừa qua, dư luận đặc biệt quan tâm tới quy định mới về đào tạo liên thông trình độ CĐ, ĐH mà Bộ GD & ĐT vừa ban hành, sẽ bắt đầu có hiệu lực từ ngày 7/2/2013. Tinh thần của quy định mới này nhằm siết lại kỷ cương đào tạo liên thông, không cho phép tồn tại tình trạng liên thông vô tội vạ, chất lượng sút kém; ở nhiều trường, liên thông còn được ví như “sân sau” để các trường làm kinh tế…
Tuy có gây “sốc” với nhiều sinh viên nhưng quy định mới này được kỳ vọng là một cú hích để siết lại chất lượng giáo dục đại học, nhất là ở hệ đào tạo phi chính quy.
Theo quy định liên thông mới, người tốt nghiệp trung cấp nghề, trung cấp chuyên nghiệp, CĐ nghề, CĐ chưa đủ 36 tháng nếu muốn học liên thông lên CĐ, ĐH sẽ phải dự thi tuyển các môn văn hóa, năng khiếu theo khối thi của ngành thí sinh đăng ký học liên thông trong kỳ thi tuyển sinh CĐ, ĐH chính quy do Bộ GD&ĐT tổ chức hằng năm.
Từ năm 2013, sinh viên học liên thông sẽ được đào tạo theo hình thức tín chỉ, không còn hình thức đào tạo theo niên chế.
Với đối tượng dự thi liên thông CĐ, ĐH đã có bằng tốt nghiệp trung cấp nghề, trung cấp chuyên nghiệp, CĐ nghề, CĐ từ ba năm (36 tháng) trở lên sẽ dự thi ba môn (môn cơ bản, môn cơ sở ngành và môn chuyên ngành, hoặc thực hành nghề) do cơ sở giáo dục ĐH tự ra đề thi và xác định điểm trúng tuyển. Sinh viên liên thông hệ chính quy sẽ học chung, thi hết môn và thi tốt nghiệp hoặc bảo vệ luận văn tốt nghiệp, đồ án tốt nghiệp cùng với sinh viên hệ chính quy.
Quy định mới còn quy định, cơ sở giáo dục đại học chỉ được tổ chức đào tạo liên thông khi có đủ các điều kiện: Có quyết định giao nhiệm vụ mở ngành đào tạo chính quy trình độ cao đẳng, đại học của ngành đào tạo liên thông; có báo cáo tự đánh giá của cơ sở giáo dục đại học và triển khai kiểm định chất lượng theo tiến độ do Bộ GD&ĐT quy định; đã công bố chuẩn đầu ra, chương trình đào tạo, điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo trên trang thông tin của trường theo quy định.
PGS.TS Bùi Anh Tuấn, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học, Bộ GD & ĐT cho biết, trước đây, liên thông được thực hiện theo Quyết định 06, nhưng sau một thời gian dài thực hiện, Quyết định 06 đã nảy sinh nhiều bất cập, chưa nói đúng được bản chất của đào tạo liên thông vì liên thông là hình thức đào tạo bảo lưu kết quả của giai đoạn trước để học ở giai đoạn sau, rút ngắn thời gian học tập, giảm được kinh phí đào tạo.
Thực tế nhiều trường không thực hiện đúng tinh thần 06, nên đã xây dựng chương trình đào tạo riêng cho liên thông ở các hệ từ xa, liên kết, vừa học vừa làm, rút ngắn thời gian đào tạo để cấp bằng chính quy như vậy là sai bản chất. Bên cạnh đó, nhiều trường không đủ điều kiện để liên thông nhưng vẫn liên thông trái phép, dẫn đến chất lượng đào tạo sụt giảm. Nhiều địa phương, cơ quan, doanh nghiệp đã từ chối nhận sinh viên bằng liên thông.
Cũng theo Vụ trưởng Bùi Anh Tuấn, Bộ GD&ĐT đã đi khảo sát ở nhiều trường, tổ chức nhiều hội thảo, hội nghị, đưa thông tin lên mạng xin ý kiến và lấy ý kiến của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội. Đó là cơ sở khoa học để cho ra đời thông tư mới này, nhằm đảo bảo chất lượng đào tạo đối với cả người học chính quy và liên thông. Đấy cũng là cách tốt nhất để bảo đảm quyền lợi cho người học, lấy lại uy tín cho người lao động, cho nhà trường.
Mặc dù sinh viên ở nhiều trường đang “sốc” với quyết định liên thông mới với lý do, nếu sau khi ra trường 3 năm, quay lại thi thì kiến thức sẽ rơi rụng hết, coi như chặn đầu ra của sinh viên liên thông; nhưng qua trao đổi với PV Báo CAND, lãnh đạo nhiều trường đại học đều đồng tình với quyết định mới này, dù có trường sẽ bị ảnh hưởng không nhỏ tới “thu nhập của giáo viên”.
GS.TS Đinh Văn Sơn, Hiệu trưởng ĐH Thương mại chia sẻ, quy định mới này chắc chắn sẽ gây khó khăn cho những trường tư thục, dân lập vốn đã khó khăn về nguồn tuyển sinh. Nhưng nếu vì mục tiêu lớn lao là nâng cao chất lượng giáo dục đại học thì khó đến mấy cũng phải thực hiện. Quan điểm của GS Đinh Văn Sơn cho rằng, đây là một “luật chơi” mới đối với sinh viên liên thông và chính quy, mà đã là luật chơi thì phải bình đẳng. Bản thân những em học cao đẳng hay trung cấp để liên thông, tức là đầu vào các em đã không đủ điều kiện học đại học hệ chính quy.
Trong bối cảnh hiện nay, đầu vào của ngành tài chính – ngân hàng hệ cao đẳng, chỉ 10 điểm là có thể đỗ, trong khi cũng ngành ấy hệ đại học của ĐH Thương mại lại lấy tới 22 điểm. Đầu vào quá khác biệt, làm sao đầu ra như nhau được. Không thể vàng thau lẫn lộn. “Giỏi thì đi thẳng, chưa giỏi thì đi đường vòng. Tuy nhiên, khi thực hiện, Bộ nên chú ý khâu thanh tra, kiểm tra, trường nào làm sai phải kiên quyết xử lý, có thể đình chỉ đào tạo liên thông” – GS.TS Đinh Văn Sơn bày tỏ.
Chung quan điểm, ông Nguyễn Văn Bổng, Trưởng phòng Đào tạo của ĐH Công nghiệp Hà Nội cũng cho rằng, đã đến lúc phải siết lại liên thông. ĐH Công nghiệp trước đây liên thông thường chiếm chỉ tiêu lớn (khoảng 3.000), nhưng như năm 2012, nhà trường đã chủ động giảm xuống 1.900 chỉ tiêu.
PGS.TS Lê Hữu Lập, Phó Giám đốc Học viện Bưu chính viễn thông cho PV Báo CAND biết, đúng là liên thông những năm qua có vấn đề. Để giữ thương hiệu, Học viện Bưu chính viễn thông đã ưu tiên chỉ tiêu cho hệ chính quy, hạn chế tuyển cao đẳng và hạn chế dần chỉ tiêu liên thông.
PGS.TS Lê Hữu Lập còn cho hay, sinh viên tốt nghiệp cao đẳng chưa thể liên thông ngay được mà đòi hỏi phải có kiến thức thực tế, 3 năm đối với các em “đi đường vòng” cũng chưa phải là quá dài. Với đối tượng này, các trường đại học sẽ tổ chức thi liên thông.
Nhưng PGS.TS Lê Hữu Lập băn khoăn, với những em tốt nghiệp chưa đủ 3 năm mà yêu cầu các em dự thi đại học như những thí sinh phổ thông thì sẽ là không tưởng. Khi đó, giá trị bảo lưu kết quả của bản chất liên thông sẽ không được bảo đảm. Bộ nên nghiên cứu lại quy định này.