Điểm tin báo chí sáng ngày 14 tháng 12 năm 2012

14/12/2012
Trong buổi sáng ngày 14/12/2012, một số báo đã có bài phản ánh những thông tin nổi bật và thông tin liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN NỔI BẬT

1. Báo Nhân dân điện tử có bài Tại phiên họp thứ 13 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Rà soát các nội dung, nhiệm vụ và phương án phân bổ vốn ngân sách T.Ư năm 2013 thực hiện hai chương trình mục tiêu quốc gia. Tiếp tục phiên họp thứ 13, hôm qua 13-12, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (QH) đã cho ý kiến về việc rà soát các nội dung, nhiệm vụ và phương án phân bổ vốn ngân sách Trung ương năm 2013 thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) ứng phó với biến đổi khí hậu và Chương trình mục tiêu quốc gia khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường.

Theo báo cáo của Chính phủ, năm 2013, Chương trình MTQG khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường được giao tổng kinh phí là 131 tỷ đồng; trong đó: Vốn đầu tư phát triển (ÐTPT) là 83 tỷ đồng, vốn sự nghiệp là 48 tỷ đồng.

            Với tổng kinh phí như trên, kinh phí thực hiện Chương trình MTQG khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường được phân bổ chủ yếu cho các cơ quan thực hiện chương trình ở địa phương là 126 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 96,2%. Phần kinh phí phân bổ cho cơ quan thực hiện chương trình ở Trung ương là năm tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 3,8%. Về tiêu chí, ưu tiên phân bổ kinh phí cho các dự án, công trình hoàn thành; các dự án xử lý ô nhiễm môi trường tại các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng theo Quyết định số 64/2003/QÐ-TTg ngày 22-4-2003 và Quyết định số 1946/QÐ-TTg ngày 21-10-2010 của Thủ tướng Chính phủ. Ðồng thời, ưu tiên bố trí vốn cho các dự án sử dụng công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường. Về phương án phân bổ vốn đầu tư phát triển, Chính phủ đã rà soát, điều chỉnh kinh phí bố trí 83 tỷ đồng cho các dự án đầu tư thuộc dự án thành phần số 1 "Khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường tại các làng nghề bị ô nhiễm môi trường đặc biệt nghiêm trọng" và dự án thành phần số 3 "Thu gom, xử lý nước thải các đô thị loại II trở lên thuộc ba lưu vực sông Nhuệ - Ðáy, sông Cầu và hệ thống sông Ðồng Nai", trong đó điều chỉnh kinh phí bố trí 50 tỷ đồng cho các dự án đầu tư thuộc dự án thành phần số 1 cho bốn địa phương là Bắc Giang, Hà Nam, Thái Bình và Ninh Bình thay vì phân bổ vốn thực hiện dự án thành phần này tại duy nhất một địa phương là tỉnh Bắc Giang (như phương án cũ đã trình) để phù hợp mục tiêu và nhiệm vụ của Chương trình.

            Về Chương trình MTQG Ứng phó với biến đổi khí hậu, năm 2013, Chương trình được giao tổng kinh phí là 248,3 tỷ đồng (vốn trong nước là 127,6 tỷ đồng, vốn ngoài nước là 120,7 tỷ đồng); trong đó: Vốn ÐTPT là 79,5 tỷ đồng; vốn sự nghiệp là 168,8 tỷ đồng.

            Thẩm tra báo cáo nói trên của Chính phủ, Ủy ban Tài chính-Ngân sách của QH nhận thấy, Chính phủ đã tiếp thu, giải trình ý kiến của Ủy ban Thường vụ QH, ý kiến của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội rà soát, cắt giảm vốn sự nghiệp, điều chỉnh phương án phân bổ vốn hợp lý hơn.

            Tuy nhiên, Ủy ban Tài chính - Ngân sách cho rằng, trong điều kiện ngân sách bố trí vốn cho hai Chương trình thấp, mục tiêu và nhiệm vụ lớn nhưng trong phương án phân bổ, sử dụng vốn lại chưa làm rõ một số vấn đề, đó là: Trật tự ưu tiên bố trí vốn cho các nhiệm vụ cụ thể; vốn đối ứng của địa phương, vốn nước ngoài và vốn huy động xã hội; việc bố trí vốn còn dàn trải, một số phương án bố trí vốn chưa phù hợp với Chỉ thị 1792/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ là việc đầu tư các công trình, dự án phải bảo đảm bố trí đủ vốn để hoàn thành dự án; danh mục các dự án đầu tư và địa bàn đầu tư thiếu tính đại diện.

            Qua thảo luận, các thành viên Ủy ban Thường vụ QH cơ bản nhất trí với báo cáo của Chính phủ về việc phân bổ kinh phí cho hai Chương trình MTQG nói trên. Bên cạnh đó, các ý kiến phát biểu đề nghị Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương tiến hành tổng kết ba năm thực hiện các chương trình MTQG giai đoạn 2011 - 2013 theo đúng Nghị quyết của QH. Trên cơ sở đó, đề xuất với QH điều chỉnh các mục tiêu, nhiệm vụ của từng chương trình, bảo đảm kinh phí còn lại của hai năm 2014, 2015 bố trí tập trung xử lý những vấn đề quan trọng nhất của chương trình.

Cũng trong sáng qua, UBTVQH đã thảo luận một số vấn đề còn có nhiều ý kiến khác nhau của Luật Hòa giải cơ sở như: Phạm vi điều chỉnh, phạm vi hòa giải của dự thảo Luật, vai trò của MTTQ trong hoạt động hòa giải... Liên quan đến quy định tại các Điều 29, 30 và 31 của dự thảo Luật, các ĐB cho rằng, Luật vẫn nặng tính hành chính, Nhà nước còn can thiệp nhiều vào hoạt động hòa giải ở cơ sở, chưa thực sự phát huy vai trò nòng cốt của MTTQ và các tổ chức xã hội. 

Do đó, dự thảo nên tiếp thu theo hướng cụ thể trách nhiệm quản lý nhà nước trong việc ban hành chính sách pháp luật; hỗ trợ kinh phí hoạt động; biên soạn tài liệu nghiệp vụ và tập huấn nâng cao hiểu biết pháp luật, kỹ năng trong hòa giải cơ sở, nhấn mạnh vai trò của UBND cấp xã trong thực hiện quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở, còn các nhiệm vụ khác giao cho MTTQ tổ chức thực hiện theo quy định của pháp luật.

Phó Chủ tịch QH Tòng Thị Phóng đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp thu các ý kiến đóng góp, tiếp tục hoàn thiện dự thảo Luật để đưa ra trình QH trong kỳ họp thứ 5 tới. 

2. Báo Hà Nội mới Online đưa tin Việt Nam tăng 15 bậc về cải cách thủ tục hành chính thuế.Theo Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế Bùi Văn Nam, tại Báo cáo môi trường kinh doanh do Ngân hàng thế giới (WB) và Tổ chức Tài chính quốc tế (IFC) công bố mới đây, Việt Nam đã tăng 15 bậc về chỉ tiêu tạo thuận lợi về thuế tại khu vực Đông Nam Á. Cụ thể, năm 2012, Việt Nam xếp vị trí 153/185 quốc gia, thì tại báo cáo vừa công bố, vị trí của nước ta là 138/185. Theo chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011-2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, đến năm 2020, Việt Nam phấn đấu trở thành một trong 4 quốc gia đứng đầu khu vực về cải cách thủ tục hành chính thuế. Tổng cục Thuế mong muốn người nộp thuế sẽ đóng vai trò giám sát việc thực thi bản tuyên ngôn, qua đó góp phần đẩy nhanh tiến trình cải cách thủ tục hành chính thuế theo hướng minh bạch, thân thiện và tạo thuận lợi hơn nữa cho người dân, DN.

II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Thanh niên Online có bài Khai trừ Đảng nguyên cán bộ Cục Thi hành án dân sự Bình Thuận. Bài báo phản ánh: Ngày 13.12, Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh Bình Thuận cho biết cơ quan này phối hợp với Chi bộ Cục Thi hành án dân sự tỉnh đến triển khai quyết định khai trừ ra khỏi Đảng đối với bà Phạm Thị Thành, nguyên Trưởng phòng Nghiệp vụ, chấp hành viên Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Thuận.

Bà Thành bị Cơ quan CSĐT - Công an TP.Phan Thiết (Bình Thuận) khởi tố, bắt giam ngày 20.11 để điều tra làm rõ hành vi làm giả hồ sơ tai nạn lao động để chiếm đoạt hơn 55,6 triệu đồng của BHXH Bình Thuận. Trước đây bà Thành từng bị Đảng ủy Dân chính đảng (nay là Đảng ủy khối các cơ quan tỉnh) kỷ luật khai trừ ra khỏi Đảng, nhưng sau đó Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Bình Thuận hạ xuống hình thức kỷ luật cảnh cáo.

2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Thi hành án ách tắc vì tòa làm lơ. Bài báo phản ánh: Trong thực tiễn, ngoài việc tòa thiếu trách nhiệm giải thích rõ bản án, nhiều khi vụ việc thi hành án còn trở nên phức tạp bởi sự phối hợp không tốt từ các cơ quan chức năng khác.

Chuyện án khó thi hành vì tòa tuyên không rõ, sai thực tế không mới. Nhưng điều đáng nói là trách nhiệm của tòa trước thiếu sót của mình: Rất nhiều vụ cơ quan thi hành án đã đề nghị giải thích nhưng tòa… làm lơ khiến vụ việc thi hành án rơi vào bế tắc.

Tháng 10-2007, TAND tỉnh Bến Tre đã tuyên buộc ông LVL và bà CTKN (ngụ xã An Thạnh, Mỏ Cày Nam) phải giao trả cho ông TVM phần đất thổ mộ có diện tích 88 m2 có tứ cận: Đông giáp phần còn lại của thửa 1668 dài 11 m; tây giáp thửa 1670 dài 11 m; nam giáp thửa 1660 dài 8 m; bắc giáp phần còn lại, thửa 1668 dài 8 m...

Vào cuộc, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỏ Cày Nam khảo sát thực tế, phát hiện diện tích 88 m2 này bị sai lệch thửa hoàn toàn so với bản án tuyên. Thửa đúng là nam giáp thửa 1666 dài 17 m… Vì vậy, Chi cục đã ra văn bản đề nghị tòa giải thích để có căn cứ thi hành nhưng đến nay tòa vẫn không trả lời.

Tương tự, tháng 11-2008, TAND tỉnh Bến Tre đã tuyên buộc bà TTT (ngụ xã Thành Thới A) phải giao cho ông ĐVB 100 m2 đất tại thửa 1740. Tuy nhiên, Chi cục Thi hành án huyện Mỏ Cày Nam khảo sát thực tế mới biết bà T. đang đứng tên chủ quyền ở thửa 1742 chứ không phải thửa 1740 như tòa tuyên. Đối chiếu với sổ mục kê của bản đồ thì thửa 1740 hiện cơ quan chức năng chưa cấp chủ quyền cho ai. Vì vậy, Chi cục đề nghị tòa giải thích nhưng tòa cũng không hồi âm.

Một vụ khác, tháng 3-2008, TAND tỉnh Bến Tre đã tuyên buộc ông VVD phải trả lại 150 m2 đất và các tài sản trên đất (xã Thới Lai, huyện Bình Đại) cho ông VVH. Ông H. phải thanh toán lại cho ông D. 20 triệu đồng, thời gian giao trả tiền và đất được thực hiện song song...

Thụ lý, Chi cục Thi hành án huyện Bình Đại xác minh, nhận thấy bản án chỉ tuyên buộc vợ chồng ông D. có nghĩa vụ giao nhà, đất và nhận số tiền 20 triệu đồng để di dời nơi khác mà không đề cập đến các thành viên khác (năm người con) đang sinh sống trong ngôi nhà. Mặt khác, giá trị tài sản trên đất chỉ có 20 triệu đồng là quá thấp so với tài sản trong giai đoạn thi hành án. Đồng thời, cũng không rõ đây là tiền hỗ trợ di dời hay tiền bồi thường giá trị tài sản. Chi cục đã có văn bản yêu cầu tòa giải thích rõ để thi hành nhưng đến nay tòa vẫn chưa giải thích được.

Không chỉ có các chi cục, ngay cả Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bến Tre cũng đang vướng một vụ do tòa án tỉnh này không chịu giải thích. Cụ thể, tháng 9-2010, TAND tỉnh Bến Tre ra quyết định công nhận thỏa thuận thành giữa các đương sự, nội dung là ông VCN cùng bà THC (ngụ phường 1, TP Bến Tre) phải trả cho Ngân hàng Công Thương - Chi nhánh Bến Tre hơn 1,15 tỉ đồng. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bến Tre tiến hành kê biên, định giá, bán đấu giá tài sản để đảm bảo thi hành án thì phát hiện quyết định trên của tòa đã cộng sai lệch hơn 100 triệu đồng, gây thiệt hại cho ông N. và bà C. Tháng 7-2012, Cục Thi hành án có công văn gửi tòa yêu cầu giải thích, đính chính lại số tiền trên nhưng đến nay vẫn không thấy phản hồi.

Ngoài việc tòa thiếu trách nhiệm giải thích rõ bản án, nhiều khi vụ việc thi hành án còn trở nên phức tạp bởi sự phối hợp không tốt từ các cơ quan chức năng khác.

Tháng 4-2009, TAND huyện Lai Vung (Đồng Tháp) tuyên buộc Công ty T. phải trả cho 10 hộ dân gần 10 tỉ đồng tiền mua cá. Thụ lý vụ việc, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lai Vung xác minh thì thấy Công ty T. đã bán toàn bộ nhà máy chế biến thủy sản cũng như quyền sử dụng đất cho Công ty TH nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Vì vậy, theo quy định, Chi cục Thi hành án vẫn kê biên toàn bộ khối tài sản này để thi hành án.

Trong thời gian nhà máy chế biến thủy sản đang được Chi cục Thi hành án chào bán đấu giá thì tháng 7-2012, cơ quan điều tra Công an tỉnh Đồng Tháp ra thông báo cho biết hai thành viên của Công ty TH đang bị khởi tố, điều tra về tội lừa đảo... Do vậy phải tạm dừng mọi hoạt động của nhà máy chế biến thủy sản (thời điểm này, dù chưa sang tên nhưng Công ty TH đã quản lý, khai thác nhà máy) để bàn giao cho cơ quan điều tra nhằm tránh mất mát, hư hao tài sản... Ngay trong ngày ra thông báo, cơ quan điều tra đã lập hợp đồng cho một công ty khác thuê lại nhà máy với giá 300 triệu đồng/tháng trong thời gian sáu tháng.

Phát hiện ra sự chồng lấn, Chi cục Thi hành án huyện Lai Vung đã có công văn báo cáo Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Tháp nhờ can thiệp. Theo công văn, Chi cục Thi hành án huyện đã có quyết định kê biên, bán đấu giá nhà máy chế biến thủy sản nhưng chưa có người đăng ký mua, hiện đang giảm giá và thông báo để bán. Tuy nhiên, cơ quan điều tra lại ra quyết định kê biên chồng lên khối tài sản trên làm cho sự việc thêm phức tạp. Cạnh đó, 10 hộ dân được thi hành án đang khiếu nại gay gắt. Vì vậy, Chi cục Thi hành án huyện đề nghị cơ quan có thẩm quyền của tỉnh cho ý kiến để xử lý vụ việc này. Dù vậy, đến nay vụ việc này vẫn chưa có hướng ra…

III- THÔNG TIN KHÁC

Trang NDHMoney.vn có bài Thủ tướng phê duyệt hơn 280 nghìn biên chế công chức năm 2013. Bài báo đưa tin: Hôm qua, ngày 12/12 Thủ tướng chính phủ đã kí quyết định phê duyệt hơn 280 nghìn biên chế công chức năm 2013.

Theo đó, tổng biên chế công chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước năm 2013 của các cơ quan, tổ chức hành chính và cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài (không bao gồm biên chế của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và công chức cấp xã) là 281.714 biên chế.

Trong đó, 111.687 biên chế thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tổ chức do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thành lập mà không phải là đơn vị sự nghiệp công lập.

Cơ quan của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện có 161.950 biên chế.

Các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài gồm 1.077 biên chế.

Ngoài ra, có 7.000 biên chế công chức dự phòng, trong đó Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tổ chức do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thành lập mà không phải là đơn vị sự nghiệp công lập có 3.000 biên chế và 4.000 biên chế thuộc cơ quan của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện.

Tổng biên chế của các Hội có tính chất đặc thù hoạt động trong phạm vi cả nước là 674 biên chế.