I- THÔNG TIN NỔI BẬT
1. Báo Nhân dân điện tử có bài Tại phiên họp thứ 13 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Hướng dẫn thi hành Nghị quyết của Quốc hội về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng Nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Bài báo đưa tin: Tại phiên họp thứ 13, chiều qua 12-12, Ủy ban Thường vụ QH đã thảo luận, cho ý kiến về dự thảo Nghị quyết Hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị quyết số 35/2012/QH13 của Quốc hội về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng Nhân dân bầu hoặc phê chuẩn.
Theo Tờ trình của Ủy ban Pháp luật của QH, việc ban hành Nghị quyết hướng dẫn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhằm cụ thể hóa và hướng dẫn thực hiện một số quy định của Nghị quyết số 35/2012/QH13 về phạm vi người được lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm; thời điểm tiến hành lấy phiếu tín nhiệm, trách nhiệm của các cơ quan tham gia quá trình lấy phiếu tín nhiệm, việc chuẩn bị báo cáo và trách nhiệm giải trình của người được lấy phiếu tín nhiệm, mẫu phiếu sử dụng trong quy trình lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm và việc xử lý kết quả lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm. Ðồng thời, tạo cơ sở chỉ đạo thống nhất việc triển khai thực hiện các quy định của Nghị quyết của Quốc hội về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng Nhân dân bầu hoặc phê chuẩn.
Theo dự thảo Nghị quyết hướng dẫn nói trên, phạm vi người được lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội; Hội đồng Nhân dân như sau:
1- Quốc hội lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước; Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, các thành viên khác của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ; Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, Tổng kiểm toán nhà nước.
2- Hội đồng Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch Hội đồng Nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân, Ủy viên Thường trực Hội đồng Nhân dân, Trưởng Ban của Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh; Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân, các thành viên khác của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
3- Hội đồng Nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch Hội đồng Nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân, Ủy viên Thường trực Hội đồng Nhân dân, Trưởng Ban của Hội đồng Nhân dân cấp huyện; Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân, các thành viên khác của Ủy ban nhân dân cấp huyện.
4- Hội đồng Nhân dân xã, phường, thị trấn lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch Hội đồng Nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân cấp xã; Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân, các thành viên khác của Ủy ban nhân dân cấp xã.
5- Tại các huyện, quận, phường đang thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng Nhân dân, chưa thực hiện việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm theo quy định của Nghị quyết số 35/2012/QH13 của Quốc hội.
Về thời điểm tổ chức lấy phiếu tín nhiệm, Quốc hội thực hiện việc lấy phiếu tín nhiệm định kỳ vào kỳ họp thứ nhất trong năm, bắt đầu từ năm thứ hai của mỗi nhiệm kỳ; Hội đồng Nhân dân các cấp thực hiện việc lấy phiếu tín nhiệm định kỳ tại kỳ họp thường lệ đầu tiên trong năm của Hội đồng Nhân dân, bắt đầu từ năm thứ hai của mỗi nhiệm kỳ.
Trên cơ sở Tờ trình của Ủy ban Pháp luật và dự thảo Nghị quyết hướng dẫn, các thành viên Ủy ban Thường vụ QH đã cho ý kiến vào từng nội dung cụ thể để cơ quan soạn thảo nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý
2. Báo Nhân dân điện tử đưa tin Ngày 12-12, tại Hà Nội: Khai mạc Ðại hội Ðại biểu toàn quốc Ðoàn TNCS Hồ Chí Minh lần thứ X. Bài báo đưa tin: Sáng 12-12, tại Trung tâm Hội nghị quốc gia Hà Nội, Ðại hội Ðại biểu toàn quốc Ðoàn TNCS Hồ Chí Minh lần thứ X chính thức khai mạc. Về dự đại hội có 999 đại biểu đoàn viên, cán bộ đoàn, đại diện cho hơn bảy triệu đoàn viên thuộc 67 tỉnh, thành đoàn và đoàn trực thuộc trong cả nước.
Ðại hội có nhiệm vụ tổng kết, đánh giá kết quả công tác Ðoàn và phong trào thanh niên, thiếu niên nhiệm kỳ 2007 - 2012; đề ra phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm của các cấp bộ đoàn và tuổi trẻ cả nước trong nhiệm kỳ 2012 - 2017; thông qua một số nội dung sửa đổi, bổ sung Ðiều lệ Ðoàn; Bầu BCH, Ban Thường vụ, Ban Bí thư và Bí thư thứ nhất T.Ư Ðoàn TNCS Hồ Chí Minh khóa X. Khẩu hiệu hành động của Ðại hội là Tuổi trẻ Việt Nam xây hoài bão lớn, rèn đức, luyện tài, đoàn kết, sáng tạo, xung kích xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ðại hội diễn ra từ ngày 12 đến 14-12.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Sang tên xe phải thật dễ!. Bài báo phản ánh: Nhiều ý kiến đề nghị Bộ Công an cố gắng giải quyết hết các vướng mắc trên thực tế trước khi triển khai quy định phạt xe không chính chủ.
Gửi thư đến Pháp Luật TP.HCM, bạn đọc thanhthien2000@... nêu thắc mắc: “Bốn năm trước, tôi có mua chiếc xe máy và nhờ người anh kết nghĩa đứng tên nhưng không may sau một năm người anh này qua đời. Khi tôi đi làm giấy mua bán xe thì công chứng viên yêu cầu tôi phải được sự đồng ý bằng văn bản của những người thừa kế của người đứng tên xe. Do các anh chị em của người chết ở nhiều nơi nên đến giờ tôi vẫn chưa làm xong thủ tục. Có cách nào đơn giản hơn không?”, ý kiến của một bạn đọc khác: “Tôi làm việc tại UBND phường nên có một ý kiến để thông tư mới của Bộ Công an khớp với các quy định về chứng thực, công chứng. Theo dự kiến của Tổng cục VII, đơn cam kết nguồn gốc xe phải có xác nhận của công an cấp xã. Xin hỏi, công an xã sẽ xác nhận cái gì? Không thể xác nhận về nội dung vì công an xã không thể biết xe đó hợp pháp hay không. Vậy chỉ có thể là chứng thực chữ ký của người cam kết mà việc này thuộc thẩm quyền của UBND cấp xã. Rất mong Bộ Công an lưu ý, hạn chế các hướng dẫn không rõ ràng hoặc chỏi nhau, gây khó cho việc thực thi”.
Ông Phan Văn Cheo, Chủ tịch Hội Công chứng TP.HCM, trả lời: Có thể trên thực tế có việc đứng tên giùm như bạn trình bày nhưng pháp luật chỉ thừa nhận người đứng tên trên giấy đăng ký xe là chủ sở hữu xe hợp pháp. Nếu người đứng tên xe qua đời không có di chúc thì chiếc xe đó thuộc sở hữu của những người thừa kế theo pháp luật của người chết. Những người thừa kế này (hàng thứ nhất gồm có: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi; hàng thứ hai được hưởng nếu hàng thứ nhất không còn ai gồm có: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột… của người chết) phải đến các cơ quan công chứng lập văn bản khai nhận di sản. Tiếp nữa, những người đồng thừa kế có thể đi công chứng hợp đồng ủy quyền cho một người được thay mặt họ làm hợp đồng chuyển nhượng xe. Sau khi làm xong hợp đồng mua bán xe thì người mua mới có thể nộp hồ sơ sang tên xe tại công an cấp huyện. Các thủ tục này hoàn toàn phù hợp với các quy định chung của Bộ luật Dân sự và không ai có thể làm khác hơn.
Theo ghi nhận của chúng tôi, bên cạnh việc nhờ người khác đứng tên giùm thì có khoảng 30% trường hợp mua xe bằng giấy ủy quyền. Có thể xuất phát từ nhiều lý do khác nhau nhưng rõ ràng cách thức mua xe như thế không đúng quy định, chứa đựng nhiều rủi ro nên mọi người không nên làm. Dễ thấy nhất là khi người đứng tên xe qua đời thì người mua phải đối mặt với nhiều thủ tục phức tạp hơn rất nhiều lần so với việc trực tiếp đứng tên xe hoặc sang tên ngay sau khi mua.
Tại Công văn số 4697 ngày 7-6-2012, Bộ Tư pháp hướng dẫn: Theo quy định của Bộ luật Dân sự, việc bán, tặng, cho xe của cá nhân là một giao dịch dân sự. Do đó, giấy bán, tặng, cho xe của cá nhân là hợp đồng dân sự và được chứng nhận tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc chứng thực tại UBND cấp huyện đối với hợp đồng giao dịch có giá trị dưới 50 triệu đồng.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn và để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, việc chứng thực hoặc công chứng giấy bán, tặng, cho xe của cá nhân có thể vận dụng thực hiện theo Thông tư 03/2008 của Bộ Tư pháp. Theo đó, thẩm quyền chứng thực giấy tờ này có thể được thực hiện tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc UBND cấp huyện hoặc UBND cấp xã đối với những huyện chưa có tổ chức hành nghề công chứng.
2. Báo Tiền phong Online có bài Nợ tiền bảo hiểm: Thắng kiện vẫn khó đòi tiền. Bài báo phản ánh: Danh sách và số nợ tiền bảo hiểm xã hội (BHXH-bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp) ngày càng tăng. BHXH nhiều tỉnh, thành chọn cách kiện con nợ ra tòa, nhưng ngay cả khi đã thắng kiện vẫn khó thu hồi nợ BHXH của doanh nghiệp.
Trước tình trạng nợ đọng BHXH gia tăng, bà Nguyễn Thị Phương Mai - Giám đốc BHXH Hà Nội cho biết, trong năm 2012, BHXH Hà Nội đã khởi kiện hơn 20 doanh nghiệp ra tòa.
Tuy nhiên, theo bà Mai, sau khi tòa tuyên án, một số doanh nghiệp vẫn không chấp hành phán quyết của tòa, buộc cơ quan thi hành án phải cưỡng chế bằng cách phối hợp với các ngân hàng cấn trừ tiền từ tài khoản của doanh nghiệp.
Thế nhưng, trước khi BHXH kịp và ngân hàng cấn trừ tiền từ tài khoản, các doanh nghiệp đã kịp rút hết tiền trong tài khoản.
Điển hình như trường hợp ở Cty Cavico xây dựng cầu hầm (huyện Từ Liêm, Hà Nội). Do Cty này mở tài khoản giao dịch tại một ngân hàng ở quận Cầu Giấy, nên sau khi thắng kiện, BHXH Từ Liêm có văn bản đề nghị Chi cục thi hành án dân sự quận Cầu Giấy thi hành bản án.
Khi đại diện cơ quan thi hành án xuống làm việc với giám đốc công ty là ông Hà Văn Choang, ông này đã có cam kết trả nợ. Tuy nhiên, sau đó, Cty Cavico đã không thực hiện.
Sau khi được BHXH huyện Từ Liêm cung cấp số tài khoản giao dịch tại các ngân hàng, cơ quan thi hành án đến làm việc với ngân hàng thì Cty Cavico đã rút hết tiền trong tài khoản.
Ông Trần Đình Liệu cho biết, rất nhiều doanh nghiệp để nợ đọng BHXH, BHYT trong thời gian dài, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của NLĐ.
Không ít trường hợp chủ doanh nghiệp trích tiền lương của NLĐ để đóng BHXH, BHYT nhưng không nộp hoặc khi các cơ quan thanh tra, xử lý thì doanh nghiệp mới chịu nộp.
Một số trường hợp thanh tra lao động ra quyết định xử phạt hành chính về nợ tiền đóng BHXH, BHYT nhưng doanh nghiệp không nộp phạt.
“Thậm chí, một số doanh nghiệp bị kiện ra Tòa về việc chậm đóng BHXH, BHYT nhưng vẫn không chấp hành các phán quyết của Tòa” - ông Liệu nói.
Theo ông Trần Đình Liệu, Trưởng ban Thu (thuộc BHXH Việt Nam) cho biết, trường hợp BHXH thắng kiện nhưng vẫn không đòi được nợ BHXH của doanh nghiệp như tại Hà Nội không phải là cá biệt.
“Đa số các vụ khởi kiện doanh nghiệp đều có hồ sơ đầy đủ nên khi toà xử thì phần thắng đều thuộc về BHXH. Tuy nhiên, số tiền cơ quan thi hành án thu được rất thấp, chỉ từ 20-30% số tiền doanh nghiệp nợ BHXH. Biện pháp chính để thu hồi nợ BHXH hiện nay là thông qua cơ quan thi hành án. Ngoài ra, dùng sức ép của NLĐ để đốc thúc doanh nghiệp thôi”, ông Liệu nói.
Trước thực tế rất khó đòi nợ BHXH, BHYT kể cả khi Toà đã xử thắng, ông Liệu cho biết, BHXH đang kiến nghị áp dụng biện pháp hình sự đối với trường hợp doanh nghiệp cố tình chây ỳ, không trả tiền nợ đọng BHXH, BHYT sau khi Toà án xét xử.
“Chỉ có áp dụng biện pháp hình sự lúc đó mới thu hồi được số tiền nợ BHXH mà doanh nghiệp đang cố tình chiếm dụng của NLĐ” - ông Liệu khẳng định.
III- THÔNG TIN KHÁC
Báo Người Lao động có bài Coi chừng “loạn căn cước”!. Bài báo phản ánh: Đề án cấp CMND mới có quy mô, ảnh hưởng tới hàng chục triệu người dân nhưng biện pháp thực hiện chưa khoa học nên cần phải được xem xét, đánh giá lại.
Trước ý kiến của TS Nguyễn Ngọc Kỷ, nguyên phó trưởng Phòng Thí nghiệm mô phỏng - Tích hợp hệ thống (Cục Tin học nghiệp vụ, Tổng cục Hậu cần và Kỹ thuật, Bộ Công an - Báo Người Lao Động ngày 12-12), TS - đại tá Trần Thế Quân, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế Bộ Công an, khẳng định việc nâng số CMND từ 9 lên 12 là có cơ sở pháp lý.
Đại tá Trần Thế Quân cho biết khi xây dựng kế hoạch thực hiện đề án cấp CMND mẫu mới, Tổng cục Cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự an toàn xã hội (Tổng cục VII) đã nghiên cứu, đánh giá về hiện trạng quản lý, cấp CMND cũ. “Phải có cơ sở hợp lý thì họ mới đưa vào đề án việc nâng số CMND từ 9 lên 12” - ông Quân nhận xét. Ông thừa nhận thực tế sẽ có nhiều người gặp rắc rối với CMND mới khi thực hiện các giao dịch nhưng điều này sẽ được khắc phục khi Tổng cục VII có văn bản “nhắc nhở” các cơ quan, ban, ngành.
Trong khi đó, TS Nguyễn Ngọc Kỷ vẫn quả quyết: “Tôi đố ai chứng minh được việc cấp CMND 12 số thì tốt hơn 9 số”. Theo ông Kỷ, để bảo đảm tính duy nhất của CMND, từ năm 1976, nước ta đã dùng hệ thống tàng thư vân tay toàn dân. “Nhờ đó mà chúng ta không chỉ cấp cho từng người dân CMND duy nhất (không trùng với người khác) mà còn bảo đảm cấp lại được số gốc ngay cả khi họ cố tình che giấu danh tính hay vì tai nạn mà mất khả năng cung cấp” - TS Kỷ nhận định.
Ông Kỷ cho biết số CMND hiện nay về thực chất là số căn cước. Việt Nam hiện đang có 63 hệ thống tàng thư (lẽ ra là 64, vì Hà Nội có cả hệ thống tàng thư của tỉnh Hà Tây cũ). Việc điện tử hóa 63 tàng thư vân tay và đưa vào hoạt động như một hệ căn cước điện tử hóa quy mô cả nước sẽ giúp tính ưu việt của CMND cao hơn nhiều lần. Rất nhiều nước trên thế giới do không sử dụng dấu vân tay nên khi cần xác định danh tính một người dân sẽ mất nhiều thời gian hơn.
“Dù lãnh đạo Tổng cục VII nói rằng đã có văn bản đề nghị các cơ quan, ban, ngành không làm khó người dân trong các giao dịch khi họ xuất trình CMND mới nhưng việc này không hề đơn giản. Họ sẽ yêu cầu người dân phải làm giấy xác nhận của cơ quan công an về việc 2 số CMND (9 số cũ và 12 số mới) là của một người. Do đã ăn sâu vào tất cả các giấy tờ, giao dịch nên những tác động làm cho công dân có thể có nhiều số CMND khác nhau đều làm cho hệ căn cước bị suy thoái, gây hiệu ứng “loạn căn cước” trong thời gian dài” - TS Kỷ nhận xét.
Theo TS Kỷ, việc thu thập vân tay 10 ngón bằng máy quét trong đề án cấp CMND mới cũng có vấn đề về tính tương thích với hệ thống chỉ bản cũ. Hệ tàng thư CMND và căn cước can phạm của nước ta đang dùng chỉ bản vân tay lăn, còn phương pháp thu nhận mới hiện nay lại dùng vân tay ấn. Nếu kéo dài tình trạng nửa CMND cũ nửa CMND mới thì không thể dùng chỉ bản vân tay ấn để tra cứu trên tàng thư thủ công CMND và căn cước can phạm (đơn giản là thiếu phần vân 2 phía, không có tam phân điểm nên phân loại không được). Việc tra cứu dấu vết trên cơ sở dữ liệu vân tay ấn không đầy đủ nên kém hiệu quả so với vân tay lăn.
Hơn nữa, Nghị định 136/2007 về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam lại quy định “hộ chiếu quốc gia được sử dụng thay thế CMND” nhất thiết phải xem xét lại. Theo nghị định này, đã có hàng loạt biểu mẫu tờ khai thu thập thông tin công dân đã thay thế mục “Số CMND/ngày cấp/nơi cấp” bằng mục “Số CMND hoặc số hộ chiếu”.
“Việc người dân “ngẫu hứng” sử dụng số hộ chiếu và số CMND không thống nhất sẽ gây ra một hệ lụy nguy hiểm với việc kết nối thông tin sau này và trực tiếp phá vỡ mong muốn kiểm soát thông tin công dân qua tàng thư, căn cước” - TS Kỷ cảnh báo. Theo ông, lẽ ra, trước khi triển khai cấp CMND mới, những bất cập này phải được khắc phục bên cạnh việc cập nhật, điện tử hóa hệ thống tàng thư cũ đang lưu trữ tại công an các tỉnh, TP. “Trang bị máy móc, hiện đại hóa hệ thống tàng thư trước vài năm rồi cấp CMND mới là khoa học và sẽ giúp đời sống người dân không bị xáo trộn” - TS Kỷ khẳng định.