Điểm tin báo chí sáng ngày 31 tháng 10 năm 2012

31/10/2012
Trong buổi sáng ngày 31/10/2012, một số báo đã có bài phản ánh những thông tin nổi bật và thông tin liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN NỔI BẬT

Báo Nhân dân điện tử đưa tin về Ngày làm việc thứ tám, kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XIII: Thảo luận về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển KT-XH năm 2012 và kế hoạch phát triển KT-XH năm 2013. Ngày 30-10, kỳ họp thứ tư, Quốc hội (QH) khóa XIII bước sang ngày làm việc thứ tám. Các đại biểu QH thảo luận ở hội trường về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2012, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013.

Nhiều ý kiến phát biểu cơ bản nhất trí với nội dung đã nêu trong Báo cáo của Chính phủ và Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế của QH về những kết quả đã đạt được, những khó khăn, hạn chế trong việc thực hiện phát triển nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2012 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp năm 2013. Trong điều kiện kinh tế nước ta vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức, tình hình kinh tế - xã hội năm 2012 tiếp tục có những chuyển biến tích cực và phát triển đúng hướng. Thời gian qua, thực hiện chủ trương, đường lối của Ðảng và Nhà nước và các quyết sách của Chính phủ, các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất, kinh doanh và nhân dân trong cả nước đã và đang nỗ lực phấn đấu để vượt qua khó khăn, thách thức. 

Các ý kiến phát biểu đều cho rằng, tình hình kinh tế - xã hội năm 2012 đã chuyển biến tích cực, tình hình lạm phát được kiềm chế, tăng trưởng ở mức hợp lý, lãi suất ngân hàng giảm, niềm tin của nhân dân, doanh nghiệp được củng cố. Tuy nhiên, theo nhiều đại biểu, rào cản đối với sự phát triển ổn định của nền kinh tế nước nhà  hiện nay, đó là nợ xấu ngân hàng và hàng tồn kho của doanh nghiệp. Theo đại biểu Cao Sĩ Kiêm (Thái Bình), bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động điều hành của Chính phủ vẫn còn nhiều yếu kém. Sự bất cập trong thời gian qua còn nằm ở việc cơ quan quản lý chưa thật sự kiểm soát được tình hình, số liệu thống kê thiếu tin cậy. Từ đó đã gây nghi ngờ về chính sách trong một bộ phận doanh nghiệp, người dân cũng như nhà đầu tư nước ngoài.

Trong thời gian còn lại của năm 2012, một số đại biểu cho rằng, cần đánh giá lại thật xác đáng tình hình, công bố giải pháp cụ thể cho các vấn đề như hàng tồn kho, nợ xấu... Các đại biểu QH: Lê Hữu Ðức (Khánh Hòa), Huỳnh Ngọc Ðáng (Bình Dương), Trần Du Lịch (TP Hồ Chí Minh), Lê Phước Thanh (Quảng Nam), Phùng Ðức Tiến (Hà Nam) và một số đại biểu khác quan tâm tình hình nợ xấu vừa qua và cho rằng, tình hình này đã tác động tiêu cực đến nhiều doanh nghiệp trong nước. Ðại biểu Trần Du Lịch nhấn mạnh, nợ xấu đang gây khó cho các doanh nghiệp, biểu hiện thực tế gần đây, các ngân hàng huy động vốn với lãi suất hơn 9% và các doanh nghiệp đi vay vốn không còn ở mức lãi suất 15%, thậm chí không thể vay vốn được. Ðại biểu này đề nghị Ngân hàng Nhà nước làm rõ vấn đề nợ xấu, sắp tới cần công khai minh bạch các tiêu chí về tái cơ cấu ngân hàng, xử lý thanh khoản cho ngân hàng yếu kém và xây dựng niềm tin của người dân đối với hệ thống ngân hàng. Ðề nghị Chính phủ thời gian tới xây dựng một lộ trình tái cơ cấu trong vòng ba năm (từ năm 2012 đến 2015), chứ không thể "ăn đong" từng năm như hiện nay. Ngoài ra, cần thành lập Ủy ban quốc gia về tái cơ cấu kinh tế, do Thủ tướng đứng đầu, bởi vì một bộ, một ngành riêng lẻ khó đảm đương việc tái cơ cấu ngân hàng.

Bên cạnh giải quyết nợ xấu ngân hàng, nhiều đại biểu quan tâm việc xử lý hàng tồn kho của các doanh nghiệp trong nước. Ðại biểu Huỳnh Ngọc Ðáng (Bình Dương) cho rằng, thực trạng đáng báo động là việc "tồn kho bất động sản" với khoảng 100 nghìn căn hộ, mặc dù Bộ Xây dựng thời gian qua đã đề ra nhiều giải pháp. Ðể giải quyết hàng tồn trong lĩnh vực xây dựng, đại biểu Lê Hữu Ðức (Khánh Hòa) cho rằng, cần phát hành trái phiếu cho các công trình quốc gia dân sinh. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần nỗ lực tìm thị trường trong và ngoài nước để tiêu thụ sản phẩm, đồng thời ưu tiên sử dụng sản phẩm của nhau, nâng cao nhận thức trong nhân dân, ưu tiên sử dụng hàng hóa sản xuất trong nước. Theo ý kiến của một số đại biểu, việc xử lý hàng tồn kho cần chú ý tới áp lực cạnh tranh với hàng nhập khẩu, cần hạn chế nhập khẩu các mặt hàng trong nước đã sản xuất phù hợp thông lệ quốc tế. Một số ý kiến kiến nghị, giải quyết nợ xấu cần gắn với giải quyết hàng tồn kho. Thí dụ, giải quyết tình hình xi-măng tồn kho thì có biện pháp đầu tư cho cơ sở hạ tầng giao thông nông thôn để tiêu thụ xi-măng.

Một số đại biểu đã thẳng thắn chỉ ra những tồn tại, khuyết điểm của nền kinh tế, trong đó đề cập vấn nạn tham nhũng và lãng phí trong thời gian qua.

Nhiều ý kiến cho rằng, trong năm 2013, Chính phủ cần tiếp tục kiềm chế lạm phát, tăng tính ổn định kinh tế vĩ mô, tạo lòng tin thị trường và xã hội, duy trì mức tăng trưởng hợp lý, đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.

II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Bồi thường do oan sai, vướng xác định thiệt hại. Bài báo phản ánh: Thực tế đã xảy ra những trường hợp cơ quan nhà nước làm sai rõ mười mươi nhưng người dân lại không được bồi thường vì không chứng minh được thiệt hại.

Tại buổi sơ kết ba năm thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ở TP.HCM, đại diện Cục Thi hành án (THA) dân sự TP cho biết năm 2012, ngành THA dân sự TP chỉ phát sinh một yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, đến nay cơ quan THA vẫn đang lúng túng trong việc xác định mức bồi thường cho người dân.

Trước đây, năm 1998 TAND TP xử phúc thẩm đã tuyên ông C. thua kiện, phải trả nợ cho ông Trương Văn Lập. Sau đó, một chấp hành viên Chi cục THA quận 11 có thiếu sót trong việc xác minh, tổ chức THA. Kết quả là ông C. - người phải THA đã tẩu tán được tài sản phải THA là một căn nhà .

Sau đó, ông Lập gửi đơn đến Chi cục THA quận 11 tố cáo chấp hành viên trên. Đầu năm 2012, cục trưởng Cục THA dân sự TP đã ban hành quyết định giải quyết khiếu nại lần hai, xác định chấp hành viên làm sai, chấp nhận khiếu nại của ông Lập. Từ căn cứ này, ông Lập đã làm đơn yêu cầu Chi cục THA quận 11 bồi thường thiệt hại là 26 lượng vàng 24 K (hơn 1 tỉ đồng).

Trong quá trình thương lượng, giải quyết bồi thường, cả Chi cục THA quận 11 lẫn Cục THA TP đều gặp vướng mắc khi xác định thiệt hại thực tế tại thời điểm chấp hành viên có hành vi trái pháp luật. Bởi hiện nay cấu trúc hiện trạng của căn nhà đã bị thay đổi nhiều, thậm chí đã sang tên, đổi chủ nhiều lần. Chưa kể, chưa có hướng dẫn về việc cơ quan nào sẽ phối hợp với cơ quan THA để định giá tài sản, xác định thiệt hại...

Trên thực tế, đã xảy ra những trường hợp cán bộ, cơ quan nhà nước làm sai rõ mười mươi nhưng người dân lại không được bồi thường vì không chứng minh được thiệt hại.

Chẳng hạn vụ của ông Nguyễn Xuân Hòa, ngụ xã Vinh Hưng, Phú Lộc (Thừa Thiên-Huế) kiện UBND huyện này yêu cầu bồi thường thiệt hại hơn 3,6 tỉ đồng vì đã ra quyết định cưỡng chế và buộc tiêu hủy tôm nuôi sai quy định. Theo hồ sơ, tháng 6-2009, ông Hòa hợp đồng thuê hơn 2 ha ao của một hợp tác xã để nuôi tôm sú và tôm thẻ chân trắng. Đến ngày 5-8, UBND huyện Phú Lộc ra quyết định cưỡng chế, buộc tiêu hủy toàn bộ số tôm nuôi.

Tại tòa, ông Hòa đã đưa ra kết luận của UBND tỉnh Thừa Thiên-Huế xác định UBND huyện Phú Lộc ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính và buộc tiêu hủy toàn bộ tôm nuôi là trái với quy định của Chính phủ. UBND tỉnh cũng buộc UBND huyện bãi bỏ quyết định cưỡng chế và bồi thường thiệt hại theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.

Cái sai của chính quyền địa phương thì đã rõ nhưng vấn đề mấu chốt là việc chứng minh thiệt hại. Đại diện UBND huyện không đồng ý bồi thường, cho rằng khi huyện tổ chức cưỡng chế thì trong hồ không còn tôm vì ông Hòa đã vớt đi bán trước. Trong khi đó, ông Lộc lại không cung cấp được bằng chứng chứng minh điều ngược lại. Vì vậy, tháng 9-2011, TAND huyện Phú Lộc xử sơ thẩm đã bác đơn khởi kiện của ông Hòa.

Theo ông Vũ Thanh Bình (Phó Trưởng phòng Kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo Cục THA dân sự TP.HCM), quá trình cơ quan chức năng giải quyết bồi thường vì cán bộ làm oan, làm sai gồm nhiều bước: Đầu tiên là phải xác định có hành vi trái pháp luật của cán bộ hay không, hành vi đó có quan hệ nhân quả với thiệt hại xảy ra hay không. Tiếp đó là xác định thiệt hại thực tế xảy ra, đánh giá mức độ của các hành vi sai trái để bồi thường cho đúng luật. Sau nữa mới tiến hành gặp gỡ các bên để thương lượng.

Ông Bình đánh giá mỗi bước này đều có những khó khăn riêng, thực tế giải quyết không đơn giản, trong đó vướng mắc lớn nhất vẫn là ở khâu xác định thiệt hại thực tế. Do vậy, cần có quy định hoặc hướng dẫn cụ thể về đánh giá thiệt hại, về cơ quan phối hợp để đánh giá. Ngoài ra, việc bố trí biên chế, nhân sự chuyên làm công tác bồi thường cũng cần được chú trọng bởi công việc này đòi hỏi sự đánh giá chính xác, bài bản, chuyên nghiệp và đúng pháp luật.

2. Báo Hà Nội mới có bài Cần có cơ quan chuyên trách về bồi thường. Bài báo phản ánh: Sau khi Báo Hànộimới số ra ngày 20-10 đăng bài "Người dân ngại đụng chạm với cơ quan công quyền" phản ánh tình trạng các tổ chức, cá nhân đang thiếu cơ chế bảo vệ quyền lợi của mình, Tòa soạn đã nhận được nhiều ý kiến phản hồi. Nhiều bạn đọc và chuyên gia pháp luật cho rằng, để tránh tình trạng các bộ, ngành đùn đẩy giải quyết yêu cầu bồi thường, cần nhanh chóng thành lập cơ quan chuyên trách, độc lập giúp thực hiện quản lý nhà nước về bồi thường.

Luật sư Nguyễn Hoài Nam (Đoàn luật sư Hà Nội) khẳng định, hiện đang tồn tại một thực tế là nhiều cơ quan có trách nhiệm bồi thường chưa nắm bắt đầy đủ các quy định của pháp luật để áp dụng. Một số tỉnh, TP vẫn chiếu theo Nghị định số 47 ngày 3-5-1997 của Chính phủ hoặc Nghị quyết số 388/2003 ngày 17-3-2003 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội để giải quyết bồi thường thiệt hại mặc dù hai văn bản trên đã hết hiệu lực, trường hợp yêu cầu bồi thường được thụ lý thuộc phạm vi áp dụng của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (TNBTCNN). Bất cập này một phần do Luật TNBTCNN đã quy định về quyền yêu cầu bồi thường của người dân và trách nhiệm giải quyết bồi thường của Nhà nước, nhưng lại thiếu văn bản hướng dẫn thi hành ở lĩnh vực hành chính, thi hành án, tố tụng, vì vậy các địa phương vin vào cớ này để không thụ lý, giải quyết.

Đáng chú ý, quy định trách nhiệm trong giải quyết yêu cầu bồi thường ở các vụ án hình sự đang là vấn đề nổi cộm hiện nay. Ông Nguyễn Duy Giảng - Phó Vụ trưởng Vụ 1 (Viện KSND Tối cao) cho biết, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, tòa án ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam đối với người đang được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Nhưng sau đó bản án sơ thẩm xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội thì theo quy định trách nhiệm bồi thường thuộc về Viện kiểm sát. Theo ông Giảng, điều này là chưa phù hợp, trong trường hợp này cần phải xem xét trách nhiệm của Tòa án cấp sơ thẩm khi ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Thực tế, hiện nay cũng còn nhiều ý kiến khác nhau về trách nhiệm bồi thường trong trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm tuyên có tội, cấp phúc thẩm hủy sơ thẩm để điều tra lại. Qua nhiều lần trả hồ sơ để củng cố bổ sung và cuối cùng, cơ quan điều tra đình chỉ điều tra thì trách nhiệm bồi thường thuộc về Viện kiểm sát hay Tòa án cũng chưa được làm rõ. Quy định chưa chặt chẽ này đã dẫn đến cách hiểu thiếu thống nhất, gây khó khăn cho người làm công tác giải quyết bồi thường. Do đó, không ít người dân kiện cơ quan công quyền nhưng không thoát nổi cảnh "chờ được vạ thì má đã sưng". Việc giải quyết yêu cầu bồi thường cho người dân còn "khiêm tốn". Trong khi đó, mặc dù công tác quản lý bồi thường nhà nước từ các bộ, ngành đến địa phương đã có sự "phân vai" bước đầu, song vẫn còn nhiều bất cập về biên chế. Hiện ở các cơ quan TƯ, hầu hết các tổ chức pháp chế đều ở tình trạng quá tải trong việc thực hiện nhiệm vụ về xây dựng, kiểm tra, theo dõi thi hành pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật. Giờ lại phải gánh trách nhiệm quản lý nhà nước về công tác bồi thường nên không thoát khỏi cảnh ôm đồm, không sâu sát.

Công tác nhân sự mỏng, nhiều bất cập chưa được giải quyết nhưng theo dự báo của Bộ Tư pháp, yêu cầu bồi thường nhà nước trong thời gian tới sẽ diễn biến phức tạp. Số vụ việc yêu cầu bồi thường nhà nước gia tăng đáng kể từ khi Luật Tố tụng hành chính có hiệu lực thi hành - ngày 1-7-2011, do phạm vi giải quyết vụ án hành chính của Tòa án được mở rộng. Đặc biệt, với quy định hồi tố, cho phép khởi kiện vụ án hành chính đối với hành vi, quyết định quản lý hành chính về đất đai từ năm 2006 nên yêu cầu bồi thường nhà nước trong lĩnh vực quản lý đất đai đang rất đa dạng.

Với bối cảnh trên, việc thành lập cơ quan chuyên trách giúp thực hiện quản lý nhà nước về bồi thường ở TƯ và địa phương sẽ giúp hoạt động bồi thường đi vào chiều sâu, xử lý chuyên nghiệp, độc lập hơn. Đơn vị chuyên trách về bồi thường sẽ không chỉ tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp xử lý lỗ hổng chính sách, hướng dẫn, hỗ trợ nghiệp vụ giải quyết bồi thường cho các cơ quan có trách nhiệm bồi thường trong phạm vi cả nước, mà còn là địa chỉ thuận lợi để cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp tìm đến khi cần có sự hỗ trợ của Nhà nước trong quá trình thực hiện quyền yêu cầu bồi thường của mình, rất phù hợp với chủ trương cải cách hành chính nhà nước hiện nay. Từ đó, sẽ khắc phục được tình trạng người dân ngại "đối mặt" với cơ quan công quyền. Làm được việc này, tất nhiên, ngân sách nhà nước ban đầu có thể phải gánh thêm một số khoản chi, nhưng cái được về lâu dài là cán bộ, công chức sẽ phải hành xử thận trọng hơn, nâng cao tinh thần trách nhiệm hơn.

3. Báo An ninh Thủ đô có bài Một luật sư bị tố lừa đảo. Bài báo phản ánh: Theo đơn tố cáo của gia đình ông Nguyễn Văn Ngọc (trú tại phố Hàm Tử Quan, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) gửi các cơ quan chức năng năm 2008, ông Ngọc quen Luật sư Lê Thị Như Hương (Trưởng VPLS Bách An, thuộc ĐLSTP Hà Nội). Sau đó, bà Hương giới thiệu, mời ông Ngọc mua mảnh đất tại số 174 Lạc Long Quân (phường Bưởi, quận Tây Hồ), có diện tích 1.080m3 với giá 55 tỷ đồng.

Để đảm bảo cho việc mua bán này, bà Hương và ông Đào Công Thiện - Giám đốc Công ty Luật Hoa Nam (là bạn của bà Hương) cùng đứng ra “bảo lãnh”. Bà Hương khẳng định, mảnh đất trên thuộc quyền sử dụng hợp pháp của 3 hộ gia đình là ông Đặng Văn Xuân (đã ủy quyền cho ông Nguyễn Nam Tấn), Phùng Văn Vang và Bùi Văn Chương, đều trú tại cụm 10, phường Bưởi, quận Tây Hồ, có giấy chứng nhận do Ủy ban Hành chính TP Hà Nội cấp từ năm 1956.

Tuy nhiên, do việc mua bán chưa đủ cơ sở pháp lý nên bà Hương và ông Thiện đã được 3 cá nhân trên ủy quyền đứng ra quyết định toàn bộ việc mua bán. Để làm tin cho bên mua trả trước 10 tỷ đồng (đợt 1), bà Hương đã “đặt” lại cho ông Ngọc 2 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (Giấy CNQSDĐ) của 2 mảnh đất có tổng diện tích gần 150m2 ở tổ 47 và 22 (thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy) là tài sản hợp pháp của bà Hương.

Cũng theo hợp đồng mua bán đất ở được lập ngày 22-6-2008 và bản phụ lục hợp đồng được lập ngày 26-12-2009, bà Hương cam kết, thời gian hoàn thành việc mua bán, làm đầy đủ giấy tờ, bàn giao đất có xây chỉ giới bao quanh nhà, GCN quyền sở hữu nhà ở và QSDĐ mang tên vợ chồng ông Ngọc trong vòng tối đa là 4 tháng (kể từ ngày ký hợp đồng mua bán). Nếu bên bảo lãnh không làm được thủ tục thì sẽ bán hai căn nhà trên trả lại tiền cho vợ chồng ông Ngọc, hoặc trả lại 10 tỷ đồng cộng thêm lãi suất 2%/tháng. Thế nhưng, sau khi gia đình ông Ngọc đã chuyển cho bà Hương số tiền 10 tỷ đồng và đến hết thời hạn thực hiện hợp đồng, bà Hương luôn đưa ra các lý do khác nhau để né tránh việc thực hiện các thủ tục bàn giao mảnh đất trên.

Theo ông Ngọc, mảnh đất trên bà Hương được ủy quyền bán cho ông Ngọc hiện đang tranh chấp và UBND TP Hà Nội đã có quyết định phê duyệt cho Công ty Xây dựng số 1 Hà Nội (thuộc Tổng công ty Xây dựng Hà Nội) xây dựng nhà chung cư. Tại thời điểm vào tháng 6-2008, khi đó bà Hương và ông Thiện chỉ là người được 3 hộ dân trên nhờ và ủy quyền để bảo vệ khiếu kiện đòi lại đất nên ông Ngọc đã đòi lại tiền. Biết vụ việc bị vỡ lở, nhiều lần vợ chồng ông Ngọc đến đòi tiền, bà Hương hứa hẹn và xin thêm thời gian, đồng thời đổ vấy cho đồng nghiệp khác cầm tiền, buộc ông Ngọc phải làm đơn tố cáo hành vi trên của bà Hương đến cơ quan chức năng.

Trao đổi với phóng viên Báo ANTĐ, bà Lê Thị Như Hương thừa nhận, việc mua bán trên là có thật. Tuy nhiên, sau khi nhận số tiền 10 tỷ đồng của vợ chồng ông Ngọc, bà Hương đã chuyển cho ông Đào Công Thiện 8 tỷ đồng. Do vậy, ông Ngọc phải đi đòi ông Thiện, còn số tiền mà bà Hương cầm của ông Ngọc đã trả cho ông Ngọc gần hết(?!). Để tạo sự thuyết phục, bà Hương còn cung cấp cho phóng viên những giấy ký nhận việc chuyển tiền giữa bà và ông Thiện. Nhưng khi phóng viên đưa ra câu hỏi, việc bà nhận tiền của ông Ngọc thì phải có nghĩa vụ trả lại, còn tiền bà cho ai vay hay chuyển cho ai thì đó là quan hệ giữa bà và người khác chứ sao lại quàng vào như vậy, bà Hương lại không thể đưa ra câu trả lời.

Có thể thấy, việc một luật sư và một giám đốc công ty luật khi biết rõ mảnh đất đang có sự tranh chấp và đã được thu hồi giao cho một đơn vị thực hiện dự án nhưng vẫn đứng ra “bảo lãnh” chuyển nhượng thì chẳng khác nào “bán giời không văn tự”.

4. Báo Đất Việt có bài 'Nghi ngại tính thượng tôn luật' vụ Tiên Lãng. Bài báo phản ánh: Vụ Tiên Lãng, các cơ quan tư pháp Hải Phòng nên đứng ngoài để các đơn vị khác điều tra, xét xử.

 “Không ai được làm quan tòa cho chính mình” là một trong những nguyên tắc pháp lý cơ bản đã được áp dụng trong  luật La Mã thời cổ đại, vào thế kỷ thứ V trước công nguyên. Mục đích cốt lõi của nguyên tắc này là nhằm đảm bảo tính khách quan, không thiên vị trong điều tra, xét xử để làm cho cán cân công lý không bị xô lệch về một bên. Nguyên tắc này, ngày nay được áp dụng một cách phổ biến và được cụ thể hóa bằng nhiêu điều luật được ghi trong các bộ luật tố tụng hình sự, dân sự, hành chính của các nước trên thế giới.

Trong vụ việc xảy ra ở xã Vinh Quang thuộc huyện Tiên lãng, việc điều tra các hành vi phạm tội của ông Đoàn Văn Vươn, tội của các quan chức ra lệnh và thực thi cưỡng chế, phá hủy tài sản nhà ông Vươn lại do Sở Công an Hải Phòng đảm nhận trong bối cảnh các hành vi sai phạm lại do chính Giám đốc cùng bốn phó giám đốc sở công an thành phố Hải Phòng chỉ huy thực hành vụ cưỡng chế (!). Việc thành lập tổ giải quyết vụ Tiên Lãng cũng do ông phó chủ tịch thành phố, người đã có những phát ngôn sai sự thật, mang tính thiên vị rõ ràng, làm tổ trưởng. Ông này bị dư luận phản đối nhưng vẫn được giao làm tố phó (?!).

Vì vậy dư luận cả nước rất xôn xao về việc gần đây cơ quan điều tra của Hải Phòng công bố đã khởi tố 4 quan chức bao gổm: phó chủ tịch huyện, trưởng phòng tài nguyên môi trường huyện, bí thư đảng ủy và chủ tịch xã mà không đề cập gì đến vị cựu chủ tịch huyện và các quan chức của thành phố. Cơ quan kiểm sát, tòa án huyện Tiên Lãng và TP. Hải Phòng là những cơ quan trước đây đã xử oan ông Đoàn Văn Vươn. Nay cũng chính những cơ quan đó điều tra, xét xử vụ án thì làm sao làm cho nhân dân tin vào sự vô tư, thượng tôn pháp luật của họ được? 

Đây rõ ràng là một bằng chứng về việc tự chỉ định quan tòa cho chính mình đã xẩy ra trong thế kỷ XXI, một hiện tượng mà nhân loại đã phát hiện và ngăn ngừa từ những thế kỷ trước công nguyên. Hơn nữa luật pháp hiện hành của Việt Nam không cho phép làm điều này. Lẽ nào các cơ quan tư pháp, hành pháp của TP.Hải Phòng không biết rõ điều cấm này của luật pháp quốc gia? Nếu cố tình làm ngơ thì khi đưa vụ án ra xét xử, tất yếu các luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị cáo sẻ yêu cầu điều tra lại và thay đổi người tiến hành tố tụng. Trong trường hợp này tòa án buộc phải làm theo luật vì không thể không chấp nhận kiến nghị đã có cơ sở pháp lý rõ ràng. Vụ việc sẻ phải được tiến hành điều tra lại từ đầu bằng cơ quan điều tra khác.Vụ án sẽ bị kéo dài không cần thiết.

Thiết nghĩ trong trường hợp này, các cơ quan tư pháp Hải Phòng nên tự nguyện từ chối và đề nghị các cơ quan cấp trên: Bộ Công an, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao lấy vụ án lên để tiến hành điều tra, buộc tội, xét xử là đúng với quy định của pháp luật và cũng là để loại bỏ những hoài nghi không đáng có đã nẩy sinh trong dư luận xã hội.