Điểm tin báo chí sáng ngày 24 tháng 10 năm 2012

24/10/2012
Trong buổi sáng ngày 24/10/2012, một số báo đã có bài phản ánh những thông tin nổi bật và thông tin liên quan đến công tác tư pháp như sau:
          I- THÔNG TIN NỔI BẬT

1. Báo Nhân dân điện tử đưa tin Ngày làm việc thứ hai, kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XIII: Thảo luận một số nội dung còn ý kiến khác nhau của hai dự thảo luật. Buổi sáng, tại hội trường, các đại biểu đã nghe Ủy viên Ủy ban Thường vụ QH, Trưởng Ban Công tác đại biểu của Ủy ban Thường vụ QH Nguyễn Thị Nương trình bày Tờ trình về dự thảo Nghị quyết về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do QH, Hội đồng Nhân dân (HÐND) bầu hoặc phê chuẩn và nghe Ủy viên Ủy ban Thường vụ QH, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của QH Phan Trung Lý trình bày báo cáo thẩm tra về dự thảo Nghị quyết nói trên.

Báo cáo của Ủy ban Thường vụ QH giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư do Ủy viên Ủy ban Thường vụ QH, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của QH Nguyễn Văn Hiện trình bày đề cập chín vấn đề, gồm: Các hành vi bị nghiêm cấm; thời gian đào tạo nghề luật sư; điều kiện miễn đào tạo nghề luật sư; tập sự hành nghề luật sư; đối tượng được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư; thu hồi và cấp lại chứng chỉ hành nghề luật sư; quy định cấp giấy chứng nhận người bào chữa; hình thức tổ chức, hành nghề luật sư, điều kiện thành lập tổ chức hành nghề luật sư và điều kiện hành nghề của tổ chức luật sư nước ngoài, của luật sư nước ngoài. Trong đó đã nêu rõ các loại ý kiến còn khác nhau và ý kiến của Ủy ban Thường vụ QH về từng vấn đề cụ thể nêu trên.

Tuy nhiên, qua thảo luận, các đại biểu QH cơ bản nhất trí với báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý của Ủy ban Thường vụ QH và cũng đã đề cập cả chín vấn đề nêu trong báo cáo, nhưng nổi lên ba vấn đề được nhiều đại biểu quan tâm thảo luận. Thứ nhất là về các hành vi bị nghiêm cấm (Ðiều 9). Ðiểm đ và điểm k, khoản 1 Ðiều này quy định: Cấm luật sư "nhận, đòi hỏi bất kỳ một khoản tiền, lợi ích nào khác...", một số ý kiến của các đại biểu (Huỳnh Nghĩa - Ðà Nẵng, Nguyễn Thái Hòa - Phú Yên,...) cho rằng, quy định này là không hợp lý, vì khi đạt kết quả tốt, khách hàng tự nguyện tặng luật sư một khoản tiền hoặc lợi ích là không trái pháp luật về dân sự và đạo đức xã hội. Một số ý kiến khác lại tán thành như dự thảo (Trần Thị Hoa Sinh - Lạng Sơn và một số đại biểu khác...). Vấn đề thứ hai là thời gian đào tạo nghề luật sư (Ðiều 12). Dự thảo quy định thời gian đào tạo nghề luật sư là 12 tháng. Một số ý kiến đề nghị cho giữ quy định như hiện hành là 6 tháng (Siu Hương - Gia Lai). Có ý kiến đề nghị phân loại đối tượng để quy định thời gian đào tạo. Theo đó, người công tác trong lĩnh vực pháp luật thì thời gian đào tạo là 6 tháng, còn đối tượng khác là 12 tháng. Có ý kiến đề nghị giao cho Bộ trưởng Tư pháp căn cứ sự thay đổi của tình hình thực tiễn để quy định thời gian đào tạo nghề luật sư, tránh phải sửa đổi luật nhiều lần về vấn đề này (Nguyễn Thái Học - Phú Yên). Vấn đề thứ ba là đối tượng được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư (Ðiều 17). Dự thảo luật quy định: viên chức đang làm công tác giảng dạy pháp luật không được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư, nhưng một số ý kiến lại đề nghị quy định đối tượng này được hành nghề luật sư, vì họ là những người có trình độ cao, nhằm bổ sung nguồn nhân lực có chất lượng cho đội ngũ luật sư, chí ít thì cũng được hành nghề trong lĩnh vực tư vấn pháp luật, nhằm tận dụng và phát huy chuyên môn của họ (Bùi Mạnh Hùng - Bình Phước, Ðinh Xuân Thảo - Hà Nội).

Buổi chiều, các đại biểu QH làm việc tại hội trường, thảo luận một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ðiện lực. Sau khi nghe Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Phan Xuân Dũng trình bày Báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ðiện lực, phần lớn các đại biểu phát biểu ý kiến đánh giá cao sự chuẩn bị của Ban soạn thảo đối với dự án luật này, đồng thời nhất trí với những giải trình, tiếp thu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Một trong những vấn đề được nhiều đại biểu QH quan tâm phát biểu ý kiến đóng góp là những điều luật liên quan xây dựng công trình, giá bán điện ở khu vực nông thôn, miền núi. Theo đó, các đại biểu Huỳnh Văn Tính (Tiền Giang), Ðoàn Nguyễn Thùy Trang (TP Hồ Chí Minh), Nguyễn Công Bình (Yên Bái) và một số đại biểu khác cho rằng: Việc đầu tư, xây dựng các công trình điện ở vùng đặc biệt khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa còn bị chậm và gặp nhiều khó khăn, cho nên ảnh hưởng đến đời sống của người dân nghèo và các hoạt động phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ an ninh - quốc phòng. Vì vậy, các dự án, công trình điện tại khu vực này cần được bảo đảm thực hiện bằng ngân sách nhà nước. Cần nghiên cứu thành lập Quỹ công ích để có điều kiện, nguồn lực đầu tư, phát triển các công trình điện cho khu vực này. Ngoài ra, bên cạnh những đối tượng được ưu tiên về giá điện đã được dự thảo luật quy định, Ban soạn thảo cần bổ sung những khu di dân tái định cư do Nhà nước thu hồi đất để xây dựng các công trình thủy điện vào diện ưu tiên, qua đó góp phần giúp người dân yên tâm khôi phục sản xuất, ổn định cuộc sống tại nơi ở mới.

Ðại biểu Lê Văn Lai (Quảng Nam) bày tỏ lo lắng của bản thân và đông đảo cử tri về hiện tượng liên tục xảy ra dư chấn, động đất ở khu vực đập Thủy điện Sông Tranh 2 trong thời gian gần đây và nêu rõ, việc xây dựng thủy điện là quan trọng, nhưng cần phải quan tâm đời sống, sinh mạng, tài sản của nhân dân. Vì vậy, dự thảo luật cần bổ sung vấn đề an toàn của các đập trong việc xây dựng các công trình thủy điện, từ đó nâng cao hơn ý thức, trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong vấn đề này.

Về ngừng giảm cung cấp điện, có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về việc áp dụng biện pháp ngừng, giảm cung cấp điện đối với các cá nhân, tổ chức có hoạt động kinh doanh sản xuất gây ô nhiễm môi trường, vi phạm trật tự về xây dựng. Ðối với hình thức thanh toán tiền điện, có đại biểu cho rằng, nên khuyến khích việc thanh toán thông qua các hình thức dịch vụ, ngân hàng và người dân có thể trả tiền điện vào nhiều thời điểm khác nhau, qua đó tạo thuận lợi hơn cho người dân, đồng thời tiết kiệm chi phí cho ngành điện trong việc sử dụng nhân công đi thu tiền. Nhiều đại biểu nhất trí không đưa nội dung phí điều tiết điện lực vào Luật vì điều tiết điện lực là hoạt động quản lý nhà nước do đó ngân sách nhà nước bảo đảm mà không phải thu từ tổ chức, cá nhân.

2. Báo Điện tử Chính phủ có bài Cử tri với phiên đầu tiên của kỳ họp Quốc hội. Việc Chính phủ thẳng thắn nhìn nhận những yếu kém, và chân thành cầu thị rút ra bài học được nhiều cử tri đánh giá là cần thiết, bởi điều này không những không làm giảm uy tín mà còn làm cho nhân dân thấy chia sẻ hơn với trách nhiệm lớn lao của Đảng, Nhà nước, Chính phủ.

Theo dõi buổi tường thuật trực tiếp phiên khai mạc Quốc hội sáng nay, PGS. Nguyễn Văn Hàm, giảng viên Đại học Quốc gia Hà Nội chia sẻ: “Trong báo cáo trình bày trước Quốc hội, trước nhân dân, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã thẳng thắn nhìn nhận những yếu kém, khuyết điểm và chân thành cầu thị rút ra bài học thấm thía, sâu sắc trong thực hiện các nhiệm vụ được giao cũng như trong toàn bộ quá trình công tác”.

Theo quan điểm của PGS. Nguyễn Văn Hàm, đây là bước khởi đầu cần thiết, việc nhận khuyết điểm không những không làm giảm uy tín mà còn làm cho nhân dân thấy chia sẻ hơn với trách nhiệm lớn lao của Đảng, Nhà nước, Chính phủ nhất là trong giai đoạn kinh tế-xã hội đất nước khó khăn hiện nay, từ đó người dân có niềm tin, đồng thuận hơn với các biện pháp sớm khắc phục yếu kém và nhân lên những mặt tích cực không phải là ít chúng ta đã đạt được trong thời gian qua.

“Trên thế giới cũng thế thôi, Chính phủ nhiều quốc gia cũng có những yếu kém, khuyết điểm. Và điều quan trọng nhất người dân mong mỏi là Chính phủ dám thẳng thắn nhận khuyết điểm trước nhân dân và quyết tâm khắc phục”, PGS Nguyễn Văn Hàm nói.

Không chỉ riêng PGS Nguyễn Văn Hàm, rất nhiều cử tri cũng đánh giá cao Thủ tướng Chính phủ thể hiện tinh thần quyết tâm cao trước Quốc hội và nhân dân trong việc nỗ lực khắc phục những yếu kém về điều hành kinh tế - xã hội của Chính phủ trong thời gian qua. 

Bà Đỗ Thị Kim Thành, cán bộ hưu (TP. Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên) cho rằng, các báo cáo của Chính phủ đã chỉ rõ được điểm mạnh, điểm yếu hiện nay của kinh tế - xã hội Việt Nam. Trong tình hình thế giới có nhiều biến động khó lường, nhưng Chính phủ vẫn bảo đảm được cuộc sống ổn định cho người dân, đó là điều rất đáng phấn khởi.

Bà Thành nói, “hy vọng rằng, khi Chính phủ đã tự “bắt mạch” được những mạnh, yếu của kinh tế - xã hội thì Chính phủ sẽ có biện pháp “kê đơn, chữa bệnh” phát huy điểm mạnh, khắc phục được điểm yếu một cách sớm nhất”.

Theo dõi phiên khai mạc kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIII, cử tri Đỗ Thị Thanh, huyện Gia Lâm, Hà Nội đánh giá, “đây là kỳ họp rất quan trọng với nhiều vấn đề nóng bỏng được đặt lên bàn nghị sự”.

Ông Diệp Chung Bình, cán bộ Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam, chia sẻ kỳ họp này đang được cử tri cả nước theo dõi hết sức sát sao và trông đợi những quyết sách đúng đắn của những “người đại biểu dân cử”.

Đời sống, việc làm của người lao động còn nhiều khó khăn, kinh tế tuy có bước phát triển nhưng chưa bền vững… là băn khoăn của hầu hết người dân.

Với khoảng 13 phiên họp có phát thanh và truyền hình trực tiếp (nhiều hơn so với kỳ họp trước 5 buổi), kỳ họp Quốc hội này được cử tri mong đợi sẽ góp phần giải tỏa nhiều băn khoăn cho người dân trước những thông tin sai lệch, thiếu thiện chí đang xuất hiện trên các trang mạng xấu hoặc len lỏi trên các đường phố, ngõ quê theo kiểu “rỉ tai, truyền khẩu”.

Nói như thầy giáo Ngô Chí Công (ở  huyện Văn Lâm – tỉnh Hưng Yên), người dân không dễ tin vào những tin đồn thổi, bịa đặt nhưng cũng luôn đòi hỏi thông tin về những vấn đề đang được dư luận quan tâm phải được cung cấp đầy đủ, kịp thời, chính xác. Qua đó, người dân được tiếp cận dễ dàng với thông tin chính thống, sẽ gạt bỏ mọi băn khoăn, sẵn sàng chia sẻ, đồng thuận với Nhà nước. 

II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Có thể kê biên nhà có HĐ chuyển nhượng trước khi “ra“ án?. Bài báo phản ánh: Thực hiện Bản án số 34/2010/DSST ngày 03/5/2010 của TAND huyện VL, tỉnh TH, chấp hành viên (CHV) xác minh bà Nguyễn Thị H (người phải THA) có tài sản duy nhất là ngôi nhà ba tầng trên 150m2 đất ở tại TT huyện VL (nhà chưa được ghi nhận trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất - QSDĐ).

Chi cục THADS huyện VL ra quyết định THA theo đơn yêu cầu với nội dung buộc bà H trả cho ông Lê Văn T (người được THA) 350 triệu đồng và lãi suất chậm THA. Do không tự nguyện THA nên CHV ra quyết định kê biên ngôi nhà và QSDĐ. Khi cơ quan THADS và các cơ quan hữu quan cưỡng chế kê biên thì bà H xuất trình hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ và nhà cho ông Nguyễn Văn B và nói rằng nhà và đất này không còn là của bà nữa.

Về nội dung và hình thức, hợp đồng giữa ông B và bà H là hợp pháp đã được công chứng và việc chuyển nhượng trước khi có bản án nhưng bên nhận chuyển nhượng chưa thực hiện thủ tục đăng ký. Việc kê biên bị dừng lại vì quan điểm không đồng nhất trong các thành viên hội đồng cưỡng chế. Viện dẫn khoản 4 Điều 146 Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai năm 2003, cơ quan THADS cho rằng hợp đồng chưa có hiệu lực nên vẫn có thể tiến hành kê biên.

Tuy nhiên, VKSND huyện VL và các ban ngành liên quan tham gia cuộc cưỡng chế cho rằng cơ quan THA không thể tiếp tục kê biên trong trường hợp này, bởi họ viện dẫn Khoản 1 Điều 6 Thông tư 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 rằng việc chuyển quyền sở hữu sử dụng nhà đất này có trước thời điểm có bản án sơ thẩm của Tòa án nên không thể kê biên được, nếu kê biên sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi hợp pháp của người thứ ba là ông B. Do đó, nếu tiếp tục thực hiện cưỡng chế, VKSND sẽ kháng nghị.

Có thể kê biên nhà đất trong vụ việc trên hay không cần căn cứ vào luật thực định, ngoài ra còn phải xem xét đến tập quán của người dân cũng như bản chất pháp lý của vấn đề.

Trên thực tế, người dân khi nhận chuyển nhượng QSDĐ hay nhà đều cho rằng sau khi công chứng thì nhà và đất đã thuộc về người mua. Một cảnh thường thấy là người mua khi đến công chứng đã cầm theo hàng cọc tiền để thanh toán cho bên chuyển nhượng và người mua nhận lại giấy tờ nhà đất, còn việc làm thủ tục đăng ký thì các bên đều tin tưởng giá trị của hợp đồng đã công chứng nên nhiều người mua chưa vội đi đăng ký.

Thậm chí, nhiều người còn bị xử phạt về việc chậm làm thủ tục đăng ký. Khi có nhu cầu mua QSDĐ, bên mua thường phải tìm hiểu nhiều vấn đề như thông tin trên Giấy chứng nhận QSDĐ, loại đất, quy hoạch, giá cả, đặt cọc, thanh toán…

Hiện việc chuyển nhượng QSDĐ phải được công chứng và sau đó đăng ký tại cơ quan đăng ký QSDĐ. Điều này có nghĩa việc chuyển nhượng QSDĐ được ghi nhận bởi hai mốc thời gian có giá trị pháp lý là thời điểm công chứng và thời điểm đăng ký.

Theo Khoản 1 Điều 6 Thông tư 14/2010, trong trường hợp việc chuyển nhượng kể từ thời điểm có bản án, CHV có quyền kê biên. Việc mua bán mà thời điểm có hiệu lực của hợp đồng chỉ cần dựa vào một thời điểm có giá trị pháp lý như chuyển nhượng căn hộ thì không có vấn đề vì sau khi công chứng hợp đồng đã có hiệu lực.

Tuy nhiên, bà B đã chuyển nhượng và công chứng hợp đồng trước khi có bản án của tòa nên không thể nói là việc chuyển nhượng diễn ra sau khi có bản án của tòa.

Thực chất vướng mắc là ở chỗ lấy một thời điểm (bản án của tòa) để đối chiếu với hai thời điểm mà hai thời điểm này lại không thể trùng nhau. Việc đối chiếu như vậy là không thể vì chỉ có thể so sánh hai thời điểm với nhau để biết thời điểm nào trước, thời điểm nào sau hay là trùng nhau. Khoản 1, điều 6, Thông tư 14/2010 có thể chưa dự liệu được tình huống này xảy ra hoặc cho rằng trong trường hợp này việc chuyển nhượng đã diễn ra trước khi có bản án.

Nếu cho rằng việc chuyển nhượng đã diễn ra trước khi có bản án thì đương nhiên CHV không thể kê biên; Còn nếu Thông tư chưa dự liệu được tình huống này xảy ra thì CHV cũng không thể kê biên vì pháp luật chưa quy định. Trong khi thực thi nhiệm vụ, CHV không chỉ tuân thủ pháp luật về các lĩnh vực khác mà còn phải tuân thủ pháp luật về thi hành án.

2. Báo Đại đoàn kết có bài Vụ lừa sổ đỏ tại xã Cần Kiệm, Thạch Thất, Hà Nội: Chính quyền xã có tiếp tay cho sai phạm?. Bài báo phản ánh: Báo Đại Đoàn Kết ngày 5-10-2012 có bài viết "Hơn 20 hộ dân bị lừa thế chấp sổ đỏ” phản ánh vụ việc: Lợi dụng sự cả tin, thiếu hiểu biết pháp luật của người dân, Công ty TNHH thương mại và dịch vụ tổng hợp điện máy Thanh An ( Cty Thanh An, trụ sở tại Từ Liêm, Hà Nội) đã tung ra chiêu thức cho người dân vay với lãi suất ưu đãi để lừa, chiếm đoạt giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hơn 20 hộ dân xã Cần Kiệm (Thạch Thất, Hà Nội) sau đó đem đi thế chấp với ngân hàng rồi ôm tiền bỏ trốn. Sau khi báo nêu, người dân xã Cần Kiệm tiếp tục phản ánh, đề nghị làm rõ trách nhiệm của chính quyền địa phương vì có dấu hiệu tiếp tay cho kẻ lừa đảo. 

Theo tìm hiểu của chúng tôi, sau khi dùng các thủ đoạn để lừa chữ ký của người dân, Cty Thanh An đã làm thủ tục chuyển nhượng, sang tên của tất cả các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của người dân thành tên Cty Thanh An. Tất cả các hợp đồng chuyển nhượng này đều được UBND xã Cần Kiệm chứng thực, có xác nhận của giám đốc văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất Vũ Đức Bảo. Theo người dân phản ánh, sau khi thế chấp sổ đỏ và ký vào những giấy tờ chưa biết nội dung trong giấy tờ, là để nhận tiền, chứ không có chuyện họ ký vào giấy chuyển nhượng đất và ra UBND xã Cần Kiệm chứng thực. Theo qui định của pháp luật, trong các hồ sơ chứng thực hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hồ sơ sang tên đổi chủ bắt buộc phải có chứng minh thư nhân dân, sổ hộ khẩu của các bên liên quan có chứng thực. Thế nhưng khi tiến hành kiểm tra hồ sơ chứng thực thì tất cả các hồ sơ liên quan lưu tại UBND xã Cần Kiệm và Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất  huyện Thạch Thất đều không có bản sao các giấy tờ này. Mặt khác, về nguyên tắc trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, phải có chữ ký của tất cả các thành viên trong gia đình đủ 18 tuổi trở lên và đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của cá nhân, phải có đầy đủ chữ ký của cả vợ và chồng, nhưng hầu hết các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất chỉ có một người ký đại diện. Giải thích về sự việc này, ông Kiều Văn Chiến, cán bộ địa chính xã Cần Kiệm lý giải: "Khi anh Nguyễn Văn Hiệp mang hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các hộ dân cho Cty Thanh An, chúng tôi thấy đầy đủ hồ sơ, chữ ký nên trình lên lãnh đạo ký và tiến hành chứng thực…”. Mới đầu, ông Kiều Văn Lương, Chủ tịch UBND xã Cần Kiệm cũng khẳng định "Chúng tôi làm đúng thủ tục và trình tự pháp luật…, người dân mang hồ sơ đến thì chúng tôi ký chứng thực…”. Tuy nhiên khi phóng viên hỏi: "Chính quyền xã làm đúng thủ tục thì tại sao trong các hồ sơ lưu, việc chứng thực đó lại thiếu các giấy tờ liên quan như chứng minh thư và sổ hộ khẩu công chứng? Nếu người dân trực tiếp đến chứng thực hồ sơ chuyển nhượng đất cho Công ty Thanh An thì họ sẽ biết nội dung hồ sơ và sẽ không bị lừa…???”. Ông Lương lý giải: "Các giấy tờ chứng thực liên quan, chúng tôi gửi hết lên Văn phòng đăng ký sử dụng đất trên huyện Thạch Thất, UBND xã không lưu giữ”. Song khi biết Phòng đăng ký quyền sử dụng đất không lưu các giấy tờ như trên, ông Lương mới công nhận: "Chúng tôi nhiều việc quá nên trong quá trình làm việc sơ suất không kiểm tra kỹ hồ sơ chứng thực dẫn đến sai sót… Đây là một bài học đắt giá cho chính quyền địa phương…”.  

Qua vụ việc cho thấy, nếu chính quyền xã Cần Kiệm làm đúng thủ tục, trình tự chứng thực theo qui định của pháp luật thì Cty Thanh An sẽ không thực hiện được hành vi lừa đảo và người dân sẽ không rơi vào tình trạng sắp "sống dở, chết dở”  như bây giờ.

3. Báo Lao động có bài Giám đốc sở tư pháp "ngồi" trên pháp luật. Bài báo phản ánh: Trong thư gửi Báo Lao Động của bà Vũ Thị Hương - Chánh Thanh tra Sở Tư pháp Quảng Ninh - tố cáo việc Giám đốc sở Phạm Thanh Phong dùng quyền để hạ nhục, đe dọa, xúc phạm nghiêm trọng tới nhân phẩm và nghề nghiệp của bà Hương.

Theo bà Vũ Thị Hương: “Đòn trừng phạt này nhằm vào tôi bởi họ nghi tôi đã cung cấp  tài liệu về việc thành lập và làm ăn phi pháp của 2 phòng công chứng ở TP.Cẩm Phả và Uông Bí. Còn ông Trường thì do ông ấy đã góp ý gì đó với lãnh đạo ngành trong đợt học tập Nghị quyết Trung ương 4”.

Vụ việc được “châm ngòi” bằng bài viết trên một tờ báo ra ngày 2.8 về lá đơn tố cáo của bà Trần Thị Chiến về mối quan hệ bất chính, sinh ra hai đứa con giữa chồng bà - ông Nguyễn Hồng Trường (nguyên GĐ Sở Tư pháp Quảng Ninh, đã nghỉ hưu) với bà Vũ Thị Hương - Chánh Thanh tra sở.

Lẽ ra, khi nhận đơn, việc làm đầu tiên là lãnh đạo Sở Tư pháp  phải mời bà Chiến hoặc chị Hương lên để xác minh hư thực của thông tin. Ngược lại, Phó GĐ Sở Tư pháp Ngô Quang Lợi đã vội trả lời báo chí (ngày 3.8), xúc phạm danh dự, nhân phẩm của hai người.

Thực tế, ngày 8.8, Sở Tư pháp Quảng Ninh nhận được đơn tố cáo của bà Chiến. Ngày 10.8, chị Hương nhận được thông báo của GĐ Phạm Thanh Phong, yêu cầu giải trình nội dung đơn tố cáo của bà Chiến. Ngày 22.8, bà Chiến được mời lên để xác minh. Rõ ràng, việc tung dư luận câu chuyện với báo chí là một “kịch bản” đã được sắp đặt từ trước.

Cùng với việc làm này, GĐ sở Phạm Thanh Phong trực tiếp “chỉ huy” cuộc truy tìm sự thật về mối quan hệ giữa vị lãnh đạo tiền nhiệm với thuộc cấp của mình. Dù bà Hương đã đem giấy tờ chứng minh cuộc hôn nhân cũng như 2 đứa con của mình với người chồng cũ - anh Vũ Văn Tú - nhưng ông Phong vẫn liên tục yêu cầu chị Hương phải giải trình.

Ngày 10.8, ông Phong ký quyết định thành lập tổ công tác để điều tra vụ việc. Ngày 16.8, ông Phong ký công văn gửi Tổ trưởng tổ 2, khu 7 B, P.Hồng Hải, TP.Hạ Long - nơi cư trú của bà Hương - đề nghị tổ dân phố họp nhận xét, đánh giá và cung cấp thông tin (nếu có) về các mối quan hệ, đạo đức, lối sống... của chị Hương. Việc làm này vừa sai về mặt pháp lý, vừa xúc phạm danh dự công dân. Kết cục, trong biên bản cuộc họp ngày 25.8, Tổ dân tổ 2 trả lời: “Không chứng kiến và không đủ căn cứ để xác nhận một điều nào trong đơn tố cáo của bà Chiến”.

Ngày 21.8, Cơ quan CSĐT CA TP.Hạ Long có giấy triệu tập anh Vũ Văn Tú (chồng cũ của bà Hương) và chị Lê Thị Thanh Huyền (vợ hiện tại của anh Tú) để lấy lời khai...

Ông Phong còn tự thảo văn bản đề nghị cơ quan điều tra cho xét nghiệm ADN đối với trường hợp chị Hương. May mà văn bản này chưa được gửi đi (!).

“Họ không chỉ xúc phạm đến danh dự của tôi, can thiệp vào đời tư của vợ chồng tôi, mà còn làm tổn thương các con của tôi.” - anh Tú bức xúc. Biến hôn nhân - một quan hệ dân sự - thành hình sự, có lẽ chỉ ông GĐ sở Tư pháp mới dám làm (!)

Rất nhiều khuất tất xung quanh ngón đòn này. Ngay trong đơn tố cáo của bà Chiến gửi Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh, chữ ký thì của bà Chiến, nhưng bút tích đề nơi gửi lại là của người khác.

Điều nghi vấn này phần nào được giải đáp trong đơn tố ngược của chính bà Chiến đối với những người gợi ý bà viết đơn tố cáo về mối quan hệ bất chính giữa chồng bà và bà Vũ Thị Hương.

Trong đơn này, bà Chiến cho biết: “Có người đến tận nhà gợi ý viết đơn để xử lý cô Hương, chứ anh Trường về hưu rồi không ai làm gì cả. Họ thảo sẵn và bảo tôi ký, nơi gửi họ tự điền vào”.

Cũng trong đơn này, bà Chiến thừa nhận “nội dung viết đơn tố cáo cô Hương là không có thật”.

Điều khó hiểu là, dù bà Chiến đã xin rút đơn tố cáo, nhưng ông Phong vẫn ra thông báo lần 3 (ngày 30.8), yêu cầu bà Hương giải trình nội dung đơn tố cáo.

Càng khó hiểu hơn khi ông Phong đột ngột yêu cầu bà Hương “phải giải trình rõ việc cán bộ nào thuộc Thanh tra sở cung cấp tài liệu cho phóng viên một số cơ quan báo chí về những tình hình cần bảo mật thuộc nội bộ cơ quan”, cho dù đơn tố cáo của bà Chiến không hề đề cập tới vấn đề này.

Về phần mình, ông Nguyễn Hồng Trường cho biết: “Tôi chỉ có góp ý thẳng thắn một số vấn đề về quản lý sự nghiệp đối với lãnh đạo ngành. Không ngờ, họ lại hành xử như vậy”.

 



File đính kèm