I- THÔNG TIN NỔI BẬT
Báo Nhân dân điện tử đưa tin Kết thúc phiên họp thứ 12 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Trong các ngày 5, 6, 8, 9, 16, 17, 18-10, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã họp phiên thứ 12 tại Hà Nội dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng.
Tại phiên họp này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về Báo cáo của Chính phủ về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2012; phương hướng, nhiệm vụ và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước và phương án phân bổ ngân sách trung ương năm 2013.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan tiếp thu hoàn chỉnh các Báo cáo toàn diện, thuyết phục hơn để trình Quốc hội tại kỳ họp thứ tư.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến và nhất trí về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Tờ trình và dự thảo Nghị quyết tổ chức lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trình Quốc hội tại kỳ họp thứ tư. Ðể phát huy quyền làm chủ, tạo sự đồng thuận và thể hiện được ý chí, nguyện vọng của nhân dân trong việc xây dựng Hiến pháp, đề nghị Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp trên cơ sở ý kiến đóng góp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, tiếp thu, hoàn chỉnh Tờ trình và dự thảo Nghị quyết trình Quốc hội tại kỳ họp thứ tư.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về ba dự án luật trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ tư, gồm: Luật Thủ đô; Luật Hợp tác xã (sửa đổi); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ðiện lực. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị cơ quan chủ trì thẩm tra phối hợp chặt chẽ với cơ quan, tổ chức hữu quan tiếp tục hoàn chỉnh các báo cáo tiếp thu, chỉnh lý và dự thảo các dự án luật nêu trên để trình Quốc hội xem xét, thông qua. Ðồng thời, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng cho ý kiến về dự án Luật Việc làm.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã xem xét, thông qua Nghị quyết điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2012 và nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII. Theo đó, bổ sung dự án Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ; rút các dự án Luật Hộ tịch, Luật Ðầu tư công, mua sắm công và Luật Việc làm ra khỏi Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2012 để có thêm thời gian chuẩn bị kỹ hơn.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về báo cáo công tác năm 2012 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; Báo cáo của Chính phủ về công tác thi hành án, về tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật và công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật năm 2012. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị các cơ quan soạn thảo phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan tích cực khẩn trương tiếp thu, hoàn chỉnh các báo cáo để kịp trình Quốc hội tại kỳ họp thứ tư.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đã cho ý kiến về Tờ trình Quốc hội về Nghị quyết về quy trình, thủ tục, cách thức lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cơ bản nhất trí với Tờ trình và dự thảo Nghị quyết nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 và Nghị quyết số 27/2012/QH13 của Quốc hội về một số cải tiến, đổi mới để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội; đồng thời, cụ thể hóa các quy định hiện hành của Hiến pháp và luật, khắc phục những hạn chế, bất cập trong quy trình bỏ phiếu tín nhiệm hiện nay; bảo đảm tính khả thi của quy định về việc bỏ phiếu tín nhiệm trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác, góp phần đưa các quy định này đi vào cuộc sống.
Cũng tại phiên họp này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về Báo cáo của Chính phủ về kết quả rà soát mục tiêu, nhiệm vụ, thời gian thực hiện và nguồn lực cụ thể của các dự án thành phần thuộc từng Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2011-2015. Ðồng thời, thông qua dự án Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước "Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng" và nhất trí với việc ban hành Nghị định về kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng dành cho người nước ngoài.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Giải pháp nào hạn chế hậu quả việc “tuyên án cho sướng miệng”?. Bài báo phản ánh: Có muôn vàn lý do để án dân sự không thể thi hành, trong đó có những bất cập trong quy định của Bộ luật Hình sự (BLHS). Những tồn tại này khiến cho cơ quan thi hành án “lao đao”, còn ngành Tòa án thì dù biết đấy nhưng vẫn “không thể làm khác”.
Đó là những trường hợp người nghiện, người mang vác thuê, kể cả buôn bán ma túy để thỏa những cơn nghiện nhất thời. Họ không có tài sản, cơm ăn phải có người nuôi, thậm chí đến một địa chỉ cư trú cũng không có… thì việc thi hành án mấy chục triệu là điều “không tưởng”. Nhiều vụ chấp hành án xong, ra tù, người phải thi hành án bỏ địa phương đi “mất tích”, đến 50 ngàn án phí hình sự (nay là 200 ngàn) Nhà nước cũng không đòi được.
Ngành Thi hành án dân sự nhiều lần bức xúc vì cho rằng, các vị “quan tòa” chỉ tuyên án cho “sướng miệng”, mà không quan tâm xem việc tuyên đó liệu có khả thi không. Không chỉ là những vụ tuyên án trong khi người phạm tội không có tài sản, mà trong đó có cả những vụ tuyên nhầm, tuyên sai, tuyên không rõ địa chỉ… cũng làm cho lượng án tồn đọng ngày một tăng.
Đó là chưa kể, để lần tìm xem địa chỉ của đương sự ở đâu, tài sản như thế nào… nhiều phen thi hành án phải “mướt mải” năm lần bảy lượt hỏi Tòa. Có Tòa trả lời, có Tòa không, khiến cho việc thi hành án càng trở nên khó khăn, bế tắc.
Tuy nhiên, các Tòa án cũng có lý của riêng họ. Ví dụ như trước kia, theo quy định của BLHS, cứ “dính” đến ma túy là phạt tối thiểu 20 triệu, mặc dù Tòa thừa biết bị cáo đó tiền bạc không có một cắc cũng vẫn phải tuyên, vì nếu không tuyên, án sẽ bị hủy vì vi phạm pháp luật. Khoản tiền phạt đó cũng giống như khoản án phí chỉ 200 ngàn, nhiều người không có điều kiện nộp mà vẫn tuyên, dù biết sau đó “trách nhiệm” đổ lên vai thi hành án.
Căn cơ để giải quyết vấn đề này là sửa luật, trong đó có cả BLHS, cả Luật Thi hành án dân sự và các luật liên quan. Tuy nhiên, muốn sửa luật thì đòi hỏi cần có thời gian, theo một quy trình nhất định. Vì vậy, trước mắt để hạn chế việc án tuyên mà không thể thi hành thì ngành Tòa án cần tuyên những bản án chính xác, rõ ràng.
Các cơ quan tố tụng cần áp dụng kịp thời các biện pháp kê biên để tránh việc tẩu tán tài sản, đảm bảo cho quá trình thi hành án. Tự thân cơ quan thi hành án cũng phải nâng cao trách nhiệm của mình trong việc thi hành phần dân sự trong bản án hình sự.
Hiện nay, Đề án miễn thi hành án đối với những khoản thu cho ngân sách Nhà nước không có điều kiện thi hành tính đến ngày 1/7/2009 đã được trình Chính phủ, dự kiến được trình ra Quốc hội vào kỳ họp thứ 4 tới đây. Nếu Đề án được thông qua thì sẽ giải quyết được một lượng không nhỏ án đang "đọng" tại các cơ quan thi hành án dân sự.
2. Báo Nhân dân điện tử mục Ý kiến có bài Thiếu cẩn trọng. Bài báo phản ánh: Ngày 31-8 vừa qua, bà Nguyễn Thị Ngọc Dung, 51 tuổi, ở khu phố Tân Ðồng 1, phường Tân Thiện (thị xã Ðồng Xoài, Bình Phước) bị Chi cục Thi hành án thị xã Ðồng Xoài tạm giữ chiếc xe ô-tô Focus biển kiểm soát 93N-2847. Chiếc xe này trị giá hơn 500 triệu đồng. Ðiều đáng nói là việc Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Ðồng Xoài tạm giữ chiếc xe ô-tô của bà Nguyễn Thị Ngọc Dung không đúng thủ tục pháp luật. Chỉ vì dựa vào bản án của Tòa án Nhân dân tỉnh Bình Phước buộc Công ty TNHH Tân Bảo Châu, do Nguyễn Thị Ngọc Lệ (con gái bà Dung) và Trịnh Trung Thành (chồng Lệ, con rể bà Dung) phải chịu trách nhiệm liên đới thi hành khoản án phí hơn 76,3 triệu đồng và liên đới trả nợ hơn 2,2 tỷ đồng cho đương sự là bà Nguyễn Thị Phượng, ông Nguyễn Văn Vương, để rồi cơ quan chức năng lại tạm giữ cả xe ô-tô thuộc quyền sở hữu của bà Dung là người không liên quan việc nợ nần này. Giải thích về sự nhầm lẫn đó, ông Hoàng Văn Ngọc, Chấp hành viên Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Ðồng Xoài, thanh minh rằng, thấy chiếc xe ô-tô thường do vợ chồng anh Thành, chị Lệ sử dụng, cho nên theo đề nghị của đương sự là bà Nguyễn Thị Phượng, ông Nguyễn Văn Vương, mà Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Ðồng Xoài đã tạm giữ chiếc xe ô-tô để bảo đảm việc thi hành án. Sau khi tìm hiểu kỹ lưỡng, Chi cục Thi hành án thị xã Ðồng Xoài phát hiện sai sót, nhầm lẫn nên đến ngày 18-9 vừa qua, đã mời "khổ chủ bất đắc dĩ" là bà Nguyễn Thị Ngọc Dung lên nhận lại xe.
Sự việc tưởng như bình thường, tuy nhiên, vì cơ quan này không giải thích rõ lý do tạm giữ, cũng không có lời xin lỗi và không bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần cho bà Dung nên bà Dung chần chừ chưa nhận lại xe. Theo bà Dung, bà không phải là đối tượng thi hành án, khi trả xe thì Chi cục Thi hành án thị xã Ðồng Xoài nên giải thích rõ ràng, chứ mời bà lên để nhận lại xe theo kiểu "không nhận thì thôi" - như lời cán bộ Chi cục Thi hành án thị xã Ðồng Xoài trả lời, thì vô lý quá. Gia đình bà Dung chỉ yêu cầu Chi cục Thi hành án thị xã Ðồng Xoài, nếu đã thấy sai thì phải xin lỗi, đồng thời, giải quyết thấu tình, đạt lý.
3. Báo Dân Việt có bài Lừa bán đất có giấy tờ giả, chiếm 4 tỷ đồng. Bài báo phản ánh: Ngày 18.10, nguồn tin từ Công an quận Tân Bình cho biết, cơ quan này đang thụ lý điều tra vụ lừa đảo bán 3 thửa đất có chủ quyền giả với giá 4 tỷ đồng.
Theo thông tin vụ việc, vào ngày 12.10.2011, anh Ngô Văn Hát (SN 1968, ngụ xã Bà Điểm, huyện Hóc Môn) ký hợp đồng mua của bà Nguyễn Thị Thanh Loan (SN 1974, ngụ xã Thới Tam Thôn, huyện Hóc Môn) 3 thửa đất tại xã Thới Tam Thôn với giá 4 tỷ đồng. Cả hai đưa nhau ra Phòng Công chứng số 5 (quận Gò Vấp) để chứng thực hợp đồng mua bán.
Đến ngày 27.3.2012, anh Hát dự định tiếp tục mua thửa đất thứ 4 cũng của bà Loan và cả hai đến Phòng Công chứng số 4 (quận Tân Bình) để chứng thực việc mua bán, đồng thời xin hợp nhất 4 thửa đất liền kề này thành một thửa. Tại đây, công chứng viên phát hiện 4 sổ đỏ của cả 4 thửa đất nói trên đều là giả. Sau vụ việc này, bà Loan đã bỏ trốn.
4. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Phải có tổ chức giám định “chung thẩm”?. Bài báo phản ánh: Để tháo gỡ “nút cổ chai” giám định trong dòng chảy tố tụng, nhiều chuyên gia đã đề xuất là nên quy định về một tổ chức giám định cao nhất hoặc một hội đồng giám định cấp cao theo vụ việc để ra kết luận có tính “chung thẩm”...
Nhiều chuyên gia khác nhận xét rằng dù về lý thuyết, kết quả giám định chỉ là một trong các căn cứ để tòa tham khảo. Tuy nhiên, thực tế có những vụ án mà kết luận giám định có tính quyết định then chốt, chẳng hạn như kỳ án “là cha hay là ông ngoại” ở Tiền Giang. Như vậy, để xác định được sự thật và giải quyết vụ án thông suốt, các cơ quan tố tụng rất cần có sự hỗ trợ kịp thời từ khâu giám định tư pháp. Việc quy định một tổ chức giám định gánh trách nhiệm “chung thẩm” sẽ chấm dứt được tình trạng dù phải giám định nhiều lần nhưng lần nào cơ quan tố tụng cũng lấn cấn chỉ vì có mâu thuẫn với các kết quả khác.
Trong dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Giám định tư pháp, một nội dung quan trọng được Bộ Tư pháp (cơ quan soạn thảo) đưa vào là không hạn chế người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc ở ba lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần và kỹ thuật hình sự. Như vậy, ngoài các tổ chức giám định công lập với đội ngũ giám định viên cơ hữu, khi cần cơ quan chức năng vẫn có thể huy động các chuyên gia giỏi, các tổ chức chuyên môn có năng lực tham gia vào hoạt động giám định tư pháp trong từng vụ việc. Nhiều chuyên gia đồng tình với quy định này. Vấn đề còn lại là cần đặt ra một cơ chế về hội đồng giám định “chung thẩm” như ai thành lập, lúc nào thành lập, hoạt động ra sao…
“Việc quy định về một tổ chức giám định cao nhất hay hội đồng giám định cấp cao đều hay và cần thiết nhưng quan trọng nhất vẫn là yếu tố con người” - Thẩm phán Phạm Công Hùng (Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao TP.HCM) nhận xét.
Theo Thẩm phán Hùng, việc thành lập tổ chức hay hội đồng đều không khó. Nhưng điều đòi hỏi là nhân sự hoạt động trong đó phải là những chuyên gia đầu ngành, giỏi nhất ở các lĩnh vực. Ngoài khả năng chuyên môn cao, khi nhắc đến họ thì xã hội phải thừa nhận cả uy tín, danh dự của cá nhân họ nữa. Mặt khác các nhà quản lý phải gỡ bỏ tư tưởng độc quyền trong công tác giám định. Bởi đã là nghiên cứu khoa học thì không thể có sự độc quyền mà phải công khai thừa nhận đó là chân lý trên cơ sở lý lẽ và sự phản biện cần thiết.
Cũng theo Thẩm phán Hùng, trong hệ thống các tổ chức giám định tư pháp công lập cũng nên có sự phân cấp giám định viên, cụ thể là sơ cấp, trung cấp, cao cấp… Sự việc đơn giản sẽ do các giám định viên sơ cấp phụ trách, vụ việc phức tạp sẽ giao cho những giám định viên trung cấp, còn những việc đặc biệt phức tạp sẽ do giám định viên cao cấp đảm nhiệm. Việc phân định như trên sẽ rõ về trình độ chuyên môn, quyền lợi, trách nhiệm của những người làm công tác giám định tư pháp.
5. Báo An ninh thủ đô có bài Khóc dở vì vỏ bọc hôn nhân ngoại - Lại thêm những đứa trẻ “không cha”. Bài báo phản ánh: Nhiều cô gái không kết hôn được với người mình yêu, những em bé không được khai sinh, không ít gia đình bỗng dưng tan vỡ… Đó là hậu quả của việc tìm mọi cách để ra nước ngoài làm kinh tế nhưng hiểu biết lơ mơ về pháp luật, mà không biết đến bao giờ mới có thể giải quyết dứt điểm…
Dù chuyện đã xảy ra cách đây khoảng 8 tháng nhưng đến nay, hễ đề cập đến chuyện những cô dâu lấy chồng Hàn Quốc, bất cứ người dân nào trong xã Tam Dị, huyện Lục Nam (Bắc Giang) cũng có thể kể vanh vách về tình huống éo le của anh Nguyễn Huy T - một cán bộ Đoàn xã. Đến tuổi lập gia đình, anh T đã yêu và quyết định cưới chị Nguyễn Thị H - cô gái kém mình 5 tuổi, xinh xắn nết na ở cùng xã làm vợ. Do thời gian tìm hiểu khá ngắn ngủi nên anh T không nắm được đầy đủ thông tin về nhân thân của chị H. Một ngày đầu tháng 2, anh T và chị H ra UBND xã Tam Dị để làm thủ tục đăng ký kết hôn. Tại đây, anh T mới ngã ngửa khi được cán bộ tư pháp xã cho biết, chị H đang là vợ của một người đàn ông Hàn Quốc, nên về mặt pháp lý, xã không thể làm giấy đăng ký kết hôn cho anh T.
Hỏi kỹ lại người yêu, anh T mới biết, đầu năm 2010 chị H đã tìm đến dịch vụ môi giới kết hôn giả để được sang Hàn Quốc. Chị đã tự nguyện “đăng ký kết hôn” với một người đàn ông quốc tịch Hàn Quốc nhằm hợp pháp hóa việc sang bên đó làm ăn. Song do trục trặc về giấy tờ, chị H không thể đi được nên vẫn ở lại Việt Nam. Do hiểu biết có hạn, chị H cho rằng, sự việc qua đi đã gần 1 năm nên tờ giấy hôn thú kia không còn giá trị nữa. Vì vậy, chị H mới đồng ý làm vợ anh T. Nghe tin này, dù rất sốc nhưng anh T vẫn quyết định dọn về sống chung với chị H, một phần vì tình yêu giữa hai người, một phần do cỗ bàn đã đặt xong, thiếp mời cưới cũng đã gửi đi hết.
Sau đám cưới, với lý do “lấy vợ người khác, chung sống như vợ chồng với người khác giới nhưng chưa đăng ký kết hôn”, anh T đã bị cách chức, khai trừ khỏi Đảng. Đến thời điểm hiện tại, anh T và chị H vẫn chung sống như vợ chồng, chị H đã có thai và đang chờ đến ngày sinh nở. Điều anh T và chị H lo lắng nhất là đứa bé sinh ra sẽ không được ghi tên bố trong giấy khai sinh như bao đứa trẻ bình thường khác và sau này đến tuổi đi học, cháu bé sẽ bị thiệt thòi.
Cũng trong hoàn cảnh tương tự, vì hoàn cảnh khó khăn nên chị Nguyễn Thị N và anh Lê Văn Nh ở thôn Đông Thịnh, xã Tam Dị đã tìm mọi cách sang Hàn Quốc làm ăn với hi vọng đổi đời. Do yêu nhau đã lâu nên sau khi anh Nh sang Hàn Quốc theo con đường du học, qua một cá nhân môi giới, chị N đã đồng ý đăng ký kết hôn với 1 người đàn ông Hàn Quốc để được sang đó với người yêu. Sau khi hoàn tất các thủ tục cần thiết và xuống sân bay, chị N đã về thẳng chỗ ở của anh Nh, tổ chức lễ cưới và chung sống như vợ chồng với anh này. Đến khi có con, chị N đưa con về quê cho ông bà nội chăm sóc. Tuy vậy, đứa bé mà chị N sinh ra với anh Nh hiện vẫn là con… ngoài giá thú do chị N chưa làm thủ tục ly hôn với người chồng Hàn Quốc và đăng ký hết hôn với anh Nh.
Về sự việc trên, được biết ngày 10-10, Sở Tư pháp tỉnh Bắc Giang đã có công văn đề nghị chủ tịch UBND huyện Lục Nam chỉ đạo các ban, ngành liên quan tăng cường tư vấn, giải thích và tuyên truyền pháp luật đối với người dân trên địa bàn nhằm nâng cao nhận thức của họ về vấn đề kết hôn với người nước ngoài. Bên cạnh đó, UBND huyện cần hướng dẫn việc đăng ký khai sinh cho trẻ em theo Nghị định 158/2005/NĐ-CP của Chính phủ về việc đăng ký và quản lý hộ tịch, thống kê, tổng hợp số liệu đăng ký kết hôn, ghi chú việc kết hôn giữa công dân xã Tam Dị với người nước ngoài đã tiến hành tại cơ quan có thẩm quyền ở nước ngoài. Ngoài ra, chính quyền địa phương cũng cần xác định số liệu về việc kết hôn giữa công dân Tam Dị với người nước ngoài nhưng chưa xuất cảnh được hoặc đã sang sinh sống ở nước ngoài nhưng nay đã trở về địa bàn xã, số trẻ em sinh ra trong thời kỳ hôn nhân giữa công dân Tam Dị với người nước ngoài đang sống tại xã nhưng chưa được đăng ký khai sinh.
Sau khi nhận được công văn này, UBND huyện Lục Nam đã yêu cầu UBND xã Tam Dị thống kê ngay các trường hợp nêu trên, báo cáo về UBND huyện và Sở Tư pháp trước ngày 25-10. Ông Nguyễn Đình Cường - Phó Chánh văn phòng UBND huyện Lục Nam cho biết, quan điểm của UBND huyện là trên cơ sở số liệu của các địa phương, huyện sẽ đề xuất với UBND tỉnh và các cơ quan chức năng có hướng giải quyết dứt điểm đối với những trẻ sinh ra trong thời kỳ hôn nhân với người nước ngoài chưa được khai sinh. Bên cạnh đó, UBND huyện cũng sẽ có văn bản yêu cầu xã Tam Dị nói riêng và các xã khác nói chung tăng cường tuyên truyền, chấn chỉnh ngay hoạt động kết hôn với người nước ngoài.
Có thể nói sự việc xảy ra tại xã Tam Dị, huyện Lục Nam là bài học sâu sắc đối với những người muốn ra nước ngoài kiếm tiền bằng mọi cách nhưng lại thiếu hiểu biết về pháp luật. Để khắc phục tình trạng này, các cơ quan chức năng cần tăng cường phổ biến giáo dục pháp luật, hỗ trợ vốn vay, tạo việc làm cho chị em phụ nữ đồng thời siết chặt việc quản lý hộ tịch, hộ khẩu, đặc biệt là với người nước ngoài. Bên cạnh đó, các bậc cha mẹ cũng cần tỉnh táo, có định hướng đúng đắn cho con em mình trong việc quyết định những vấn đề hệ trọng như kết hôn, ly hôn…, tránh tình trạng hám lợi trước mắt, đẩy con em mình vào hoàn cảnh trớ trêu, phải lỡ dở hạnh phúc cả đời.
6. Báo Sài Gòn giải phóng Online có bài Bao nhiêu tuổi được gọi là trẻ em?. Bài báo phản ánh: Hiện nay, trẻ em được xác định ở tuổi nào thì mỗi luật lại quy định khác nhau. Luật Bảo vệ - chăm sóc - giáo dục trẻ em năm 2004 quy định độ tuổi của trẻ em dưới 16 tuổi. Bộ luật Lao động quy định người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi; Luật Thanh niên quy định thanh niên 16 - 30 tuổi; Bộ luật Dân sự quy định 18 tuổi trở lên mới là người thành niên; Bộ luật Hình sự quy định người 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi hành vi phạm tội. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; giao cấu với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì phạm tội giao cấu với trẻ em; mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi đều phạm tội hiếp dâm trẻ em.
Trong khi đó, Công ước của Liên hiệp quốc về quyền trẻ em và nhiều điều ước, thỏa thuận quốc tế khác liên quan đến trẻ em mà Việt Nam đã ký kết, tham gia đều quy định độ tuổi trẻ em là dưới 18 tuổi. Việc quy định về độ tuổi trẻ em chưa đồng nhất dẫn đến phát sinh một số hệ lụy trên thực tế. Việc sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ - chăm sóc - giáo dục trẻ em cũng có nhiều băn khoăn khi xác định độ tuổi trẻ em. Ví dụ, nên nâng độ tuổi trẻ em lên đến dưới 18 tuổi theo Công ước quốc tế hay giữ nguyên độ tuổi dưới 16 tuổi? Nâng quy định độ tuổi trẻ em dưới 18 tuổi sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi hơn cho trẻ em được bảo vệ, chăm sóc đầy đủ, toàn diện, trở thành người có ích cho xã hội.
Nhưng thực tế, nếu xác định tuổi trẻ em dưới 18 tuổi thì các em sẽ được hưởng lợi từ các chính sách ưu đãi dành cho người chưa thành niên trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, phúc lợi xã hội… Song việc thay đổi này sẽ khiến phải thay đổi nhiều văn bản pháp luật khác như Bộ luật Hình sự, Bộ luật Lao động, Luật Hôn nhân và gia đình… cũng như nhiều văn bản dưới luật khác, để bảo đảm tính thống nhất độ tuổi của trẻ em.
Một bất hợp lý là trong lúc Luật Bảo vệ - chăm sóc - giáo dục trẻ em sửa đổi theo đề xuất dưới 18 tuổi thì Luật Hôn nhân và gia đình sửa đổi đang đặt ra vấn đề hạ độ tuổi kết hôn với nữ giới từ 18 tuổi xuống còn 16 tuổi, trong lúc tuổi kết hôn hiện tại là nữ từ 18 tuổi, nam từ 20 tuổi trở lên. Những bất cập về độ tuổi rất cần có sự thống nhất từ cơ quan lập pháp đến cơ quan hoạch định chính sách.