Điểm tin báo chí sáng ngày 03 tháng 10 năm 2012

03/10/2012
Trong buổi sáng ngày 03/10/2012, một số báo đã có bài phản ánh những thông tin liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Trang VTC News có bài Bội ước, thị uy đối tác, 7 lần trốn thi hành án. Bài báo phản ánh: Hai phiên toà đã xét xử; 7 lần gửi giấy triệu tập thi hành án, 3 lần các cơ quan chức năng vào cuộc nhưng vẫn “lực bất tòng tâm”...

Ngày 02/8/2009 Công ty TNHH Bình Minh (An Thắng, An Lão, Hải Phòng) và Công ty CP Ánh Bình Minh (An Tiến, An Lão, Hải Phòng) đã ký kết hợp đồng thuê đất.

Theo đó, Công ty CP Ánh Bình Minh nhượng một phần đất hiện Công ty CP Ánh Bình Minh đang thuê tại thôn Khúc Giản, xã An Tiến, huyện An Lão với diện tích là 30.000m2, thủ tục pháp lý do Công ty CP Ánh Bình Minh chịu trách nhiệm, giá trọn gói được phân làm hai loại: Đất đã san lấp 300.000đ/m2, đất chưa san lấp là 260.000đ/m2.

Hoàn thành hợp đồng Công ty CP Ánh Bình Minh được hưởng 400 triệu đồng tiền dịch vụ, thời gian thực hiện hợp đồng là 04 tháng.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng, xét thấy có dấu hiệu lừa đảo, Công ty Bình Minh đã có đơn kiện gửi đến Tòa án Nhân dân huyện An Lão, ngày 32/9/2011, TAND huyện An Lão mở phiên toàn xét xử sơ thẩm.

Tòa tuyên hợp đồng ký kết giữa hai công ty vô hiệu, buộc Công ty Ánh Bình Minh phải trả lại toàn bộ số tiền đã chiếm giữ và bồi thường thiệt hại cho Công ty Bình Minh số tiền là 2,7 tỉ đồng. Sau đó, ông Nguyên đã làm đơn chống án lên TAND TP Hải Phòng.

Ngày 26/12/2011, TAND TP Hải Phòng mở phiên tòa phúc thẩm, Tòa chỉ giảm nhẹ thiệt hại cho Công ty Ánh Bình Minh gây lên với lý do: “Bên công ty Bình Minh đã không tìm hiểu kỹ đối tác nên đã chia theo tỉ lệ Công ty Bình Minh chiếm 40%, Công ty Cổ phần Ánh Bình Minh chiếm 60%”, tức là tổng số tiền Công ty Ánh Bình Minh phải trả lại cho Công ty Bình Minh là 1,8 tỉ".

Quyết định của 2 phiên tòa đã được Chi cục Thi hành án huyện An Lão tiếp nhận. Tuy nhiên, đến nay, việc thi hành án của Công ty Ánh Bình Minh vẫn chưa thực hiện theo bản án của TAND TP Hải Phòng.

 

Trao đổi với PV VTC News, ông Vũ Văn Biên, Phó chi cục trưởng Chi cục Thi hành án huyện An Lão cho biết, sau khi nhận được đơn yêu cầu thi hành án của Công ty Bình Minh và bản án của TAND TP Hải Phòng, Chi cục đã ban hành quyết định về việc thi hành án theo đơn yêu cầu của Công ty Bình Minh, đồng thời đã tống đạt quyết định trên tới Công ty Ánh Bình Minh, tiến hành các bước theo quy định để tổ chức thực hiện thi hành án.

Theo đó, đã 7 lần gửi giấy triệu tập ông Nguyên đến Cơ quan Thi hành án để làm việc, 3 lần thành lập Đoàn xuống làm việc tại Công ty Ánh Bình Minh song ông Nguyên vẫn lẩn tránh.

Như vậy, ông Nguyên đã cố tình lẩn tránh, không hợp tác với Cơ quan Thi hành án huyện An Lão, buộc Cơ quan Thi hành án phải đăng thông báo trên Báo Pháp luật Việt Nam triệu tập ông Nguyên đến làm việc.

Theo luật định sau ngày 30/9/2012, Chi cục Thi hành án huyện sẽ tiếp tục xác minh tài sản của Công ty Ánh Bình Minh để cưỡng chế thi hành.

Thời gian qua, Chi cục Thi hành án huyện cũng đã gửi công văn đến 13 ngân hàng nơi Công ty Bình Minh mở tài khoản giao dịch, tuy nhiên tài khoản của Công ty Ánh Bình Minh mở ra nhưng không có tiền trong tài khoản nên chưa thể áp dụng biện pháp cưỡng chế nhằm bồi thường thiệt hại cho công ty Bình Minh.

Trong thời gian tới, Chi cục Thi hành án sẽ tiếp tục xác minh tài sản của Công ty Ánh Bình Minh để ra quyết định cưỡng chế thi hành, buộc phải bồi thường và trả lại khoản tiền đã chiếm đoạt của Công ty Bình Minh, theo quyết định của TAND TP Hải Phòng.

2. Báo Nhân dân điện tử có bài Nhập quốc tịch vẫn cần chứng minh khả năng tài chính. Bài báo phản ánh: Sáng 2-10, Liên đoàn Luật sư tổ chức buổi hội thảo trao đổi về kết quả rà soát các thủ tục hành chính (TTHC) trong lĩnh vực quốc tịch và chứng thực. Đây là lĩnh vực mà Liên đoàn Luật sư được giao rà soát nhằm cắt giảm hoặc đơn giản hóa những TTHC này.

Luật sư Lê Hồng Lam cho hay, trong số 10 lĩnh vực TTHC liên quan đến quốc tịch, nhóm rà soát đề xuất bãi bỏ ba TTHC, sửa đổi, bổ sung bẩy TTHC. Ba TTHC được đề xuất bãi bỏ gồm: thủ tục đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam, thủ tục thông báo có quốc tịch nước ngoài và thủ tục cấp Giấy xác nhận có quốc tịch Việt Nam.

Theo giải thích của nhóm nghiên cứu, thủ tục thông báo có quốc tịch nước ngoài, việc công dân có thực hiện gửi thông báo có quốc tịch nước ngoài hay không, đều không dẫn tới việc mất, hạn chế hay ảnh hưởng đến quốc tịch Việt Nam của họ. Do đó, quy định TTHC này là hoàn toàn không cần thiết.

Với thủ tục đăng kỹ giữ quốc tịch Việt Nam, đại diện Cục lãnh sự Bộ Ngoại giao cho hay, trong hơn hai năm thực hiện trên tổng số gần bốn triệu người Việt Nam định cư ở nước ngòai, chỉ có hơn 2000 trường hợp đăng ký, trong đó một nửa có là có giấy tờ chứng minh quốc tịch, một nửa phải xác minh qua Bộ Tư pháp và Bộ Công an.

“Dù đã nhờ hai cơ quan xác minh, song vẫn khó để xác định có quốc tịch Việt Nam hay không vì nhiều nguyên nhân. Như vậy tính khả thi của quy định này là không có, không đáp ứng được tâm tư nguyện vọng của bà con, do đó thống nhất bỏ thủ tục này.”

Đối với bẩy TTHC còn lại, đa số đề nghị làm rõ nội dung hồ sơ thủ tục, giảm bớt số bộ hồ sơ, rút ngắn thời gian giải quyết. Khi thực hiện thủ tục tước quốc tịch và hủy bỏ quốc tịch cho nhập quốc tịch Việt Nam, cần quy định cụ thể hơn với các giấy tờ cần trong hồ sơ như: “các tài liệu xác minh” gồm những tài liệu gì để tiện cho người thực hiện.

Thêm vào đó, “văn bản kiến nghị của Tòa án về việc tước quốc tịch Việt Nam” là không hợp lý bởi lẽ, theo đại diện ngành Tòa án, khi trong bản án đã có hiệu lực pháp luật tuyên tước quốc tịch thì không cần thiết phải có một văn bản kiến nghị. Thường Tòa án chỉ ban hành văn bản kiến nghị khi có yêu cầu chứ không phải là sau khi ra bản án.

Một trong những thủ tục có nhiều ý kiến khác, là thủ tục nhập quốc tịch Việt Nam. Theo nhóm rà soát, không cần thiết có giấy tờ chứng minh bảo đảm cuộc sống ở Việt Nam vì bản thân cá nhân nhập tịch phải có đủ hành vi dân sự để bảo đảm cuộc sống, việc xin xác nhận của một tổ chức cũng chỉ mang tính hình thức.

Tuy nhiên theo một số luật sư, hiện công dân Việt Nam khi xin thị thực nhập cảnh vào một quốc gia nào đó cũng cần phải có giấy tờ chứng minh khả năng tài chính của họ. Dù là gửi vào, rút ra hoàn toàn là hình thức, nhưng cũng chứng minh người đó có đủ tiềm lực tài chính hoặc mối quan hệ để có nguồn tài chính đó. Không nên coi nhẹ việc nhập quốc tịch vào Việt Nam mà nên tuân thủ theo quy định chung của các quốc gia khác, tránh việc nhập tùy tiện.

Trong lĩnh vực chứng thực, nhóm nghiên cứu cho hay, mỗi nhóm TTHC đều có những điểm giống nhau về bản chất và có những đặc điểm chung nên việc tách biệt các thủ tục cùng nội dung là không cần thiết. “Việc gộp lại là hợp lý và đảm bảo việc đơn giản hóa TTHC”, Luật sư Nguyễn Thị Gấm nói.

Cụ thể, sát nhập thủ tục chứng thức hợp đồng đã được soạn thảo sẵn (đối tượng hợp đồng không phải là bất động sản) và chứng thực hợp đồng do người thực hiện chứng thực soạn thảo theo đề nghị của người yêu cầu chứng thực hoặc theo mẫu gọi chung là “thủ tục công chứng, hoặc chứng thực hợp đồng”.

Qua khảo sát cho thấy công chứng hợp đồng hiện nay do tổ công chứng thực hiện, còn tại các địa phương chưa có phòng công chứng thì do UBND cấp xã, hoặc phòng tư pháp cấp huyện chứng thức, do vậy không cần tách thủ tục hợp đồng đã soạn thảo sẵn, theo mẫu hay không theo mẫu.

 

Nhóm rà soát cũng đề nghị sáp nhập bốn TTHC chứng thực đó là: Bản sao từ bản chính (Tiếng Việt, tiếng nước ngoài), Bộ hồ sơ cả Tiếng Việt và tiếng nước ngoài; song ngữ) gọi chung là “thủ tục chứng thực giấy tờ, văn bản” vì cả bốn TTHC trên đều phải có bản chính để đối chiếu sau đó mới đóng dấu chứng thực sao y bản chính, ngoài ra không có yêu cầu khác.

Ba TTHC chứng thực chữ ký trong các giấy tờ, văn bản bằng Tiếng Việt; chứng thực điểm chỉ trong các giấy tờ, văn bản Tiếng Việt và chứng thực chữ ký trong giấy tờ văn bản- Tiếng Nước ngoài gộp chung thành “thủ tục công chứng, chứng thực chữ ký, điểm chỉ”, bởi trình tự thủ tục, kết quả thực hiện là giống nhau, nên việc quy định thành những TTHC độc lập là cần thiết.

Về thẩm quyền chứng thực giấy tờ văn bản, nhóm rà soát cũng đề nghị bỏ thẩm quyền chứng thực phòng tư pháp cấp huyện và giao cho UBND cấp xã, tổ chức hành nghề công chứng thực hiện việc chứng thực giấy tờ, văn bản.

Mặc dù các kết quả rà soát trên chủ yếu theo phương pháp nghiên cứu tại bàn, ít khảo sát thực tế song những kiến nghị đề xuất trên của Liên đoàn Luật sư đã góp một cái nhìn từ góc độ những người thực thi pháp luật vào công cuộc cải cách TTHC của nước ta.

Ông Nguyễn Văn Lâm- Cục phó Cục Kiểm soát TTHC, Văn phòng Chính phủ cho hay, tính đến thời điểm này, để cải cách TTHC theo Đề án 30, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 25 nghị quyết để cắt giảm 4.800 TTHC không hợp lý và không cần thiết. Nhờ vậy, khoảng 68% TTHC đã được bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Thủ tướng Chính phủ cũng ban hành Quyết định số 263/QĐ-TTg phê duyệt kế hoạch rà soát các TTHC trọng tâm trong năm 2012. Điều này cho thấy quyết tâm đơn giản hóa TTHC, tạo thuận tiện hơn nữa cho người dân.

3. Báo Tuổi trẻ Online có bài Gom thông tin hộ tịch vào một sổ. Bài báo phản ánh: Thông tin này được đưa ra tại phiên thảo luận về dự án Luật hộ tịch của Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội ngày 1-10.

Theo quy định hiện hành, khi công dân đăng ký khai sinh, kết hôn, nuôi con nuôi, giám hộ... đều được ghi vào một sổ riêng và có thể được đăng ký ở nhiều địa phương khác nhau, thậm chí ở nước ngoài.

Người dân được cấp một bản chính bằng giấy, dẫn đến phải lưu trữ nhiều loại giấy tờ khác nhau. Những bất cập này khiến thông tin hộ tịch của công dân bị phân tán, khi cần kiểm tra gặp khó khăn, mất nhiều thời gian.

Do vậy, dự án Luật hộ tịch đưa vào quy định cấp sổ bộ hộ tịch (sổ gốc do cơ quan nhà nước lưu giữ) và sổ hộ tịch cá nhân cấp cho mỗi công dân được ghi các thông tin cá nhân từ lúc sinh ra cho đến chết. Khi cần chứng minh thông tin liên quan đến hộ tịch, công dân chỉ cần xuất trình sổ này là được làm thủ tục hành chính, thay vì phải xuất trình giấy khai sinh hay một số giấy tờ khác về hộ tịch như trước nay.

Theo Phó chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Quốc hội Đặng Đình Luyến, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định chưa trình dự án Luật hộ tịch để Quốc hội xem xét mà yêu cầu Chính phủ tiếp tục nghiên cứu, tiếp thu các ý kiến góp ý.

4. Báo Sài Gòn giải phóng online có bài Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới vào các dự án luật. Bài báo phản ánh: Trong 2 ngày 30-9 và 1-10, tại TPHCM, Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội cùng Nhóm nữ đại biểu Quốc hội Việt Nam và Cơ quan Phụ nữ LHQ (UN Women) tổ chức hội thảo “Đại biểu dân cử với việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong dự án Luật Việc làm và Luật Hòa giải ở cơ sở và Luật Hộ tịch”.

Theo các đại biểu, dự án Luật Hòa giải ở cơ sở cần có những chế định bắt buộc đảm bảo các quyền bình đẳng của phụ nữ. Cần bổ sung nội dung hòa giải bạo lực gia đình thuộc phạm vi hòa giải cơ sở để củng cố truyền thống tốt đẹp và tình đoàn kết trong gia đình.

Dự thảo Luật Hộ tịch nên bổ sung quy định về đăng ký khai sinh cho trẻ em bị bỏ rơi...

5. Báo Phụ nữ Online có bài “Cõng” nhiều nghị định, luật vẫn “hở”. Bài báo phản ánh: Vấn đề hôn nhân và gia đình (HN-GĐ) có yếu tố nước ngoài được Luật HN-GĐ quy định từ điều 100 đến điều 106. Ngày 1/1/2011, Luật Nuôi con nuôi có hiệu lực thi hành, bãi bỏ điều 105 Luật HN-GĐ. Do vậy, để điều chỉnh quan hệ HN-GĐ có yếu tố nước ngoài, hiện chỉ còn vỏn vẹn năm điều.

Các điều, khoản này cơ bản quy định các nguyên tắc, quy tắc áp dụng để giải quyết xung đột pháp luật về HN-GĐ có yếu tố nước ngoài. Để thi hành các quy định này có các văn bản hướng dẫn như Nghị định 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 và Nghị định 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006 của Chính phủ; các Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cùng các thông tư của các bộ, ngành liên quan.

Xuất phát từ thực tiễn, việc áp dụng các quy định pháp luật đã phát sinh nhiều bất cập, vướng mắc, không những từ phía công dân mà cả các cơ quan có thẩm quyền giải quyết các vụ việc cụ thể.

Đơn cử, khoản 2, điều 100 quy định trong quan hệ HN-GĐ “công dân Việt Nam, người nước ngoài tại Việt Nam được hưởng các quyền và có nghĩa vụ như công dân Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác”. Thực tế, đối với trường hợp vợ hoặc chồng là người nước ngoài theo quy định pháp luật Việt Nam về quyền sở hữu bất động sản thì chưa được đứng tên trên các giấy chứng nhận, dù tài sản được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân. Do đó, khi đăng ký quyền sử dụng đất ở, quyền sở hữu nhà ở, người vợ hoặc chồng là người nước ngoài phải lập văn bản cam kết tài sản đó không thuộc tài sản chung của vợ chồng mà là tài sản riêng của vợ hoặc chồng là người Việt Nam. Điều này không phù hợp với quy định, vì khi đó tài sản chưa được cơ quan có thẩm quyền công nhận. Mặt khác, dù tài sản đã có giấy chứng nhận, khi giao dịch thì cơ quan công chứng cũng yêu cầu người vợ hoặc chồng là người nước ngoài lập văn bản cam kết tài sản riêng. Điều này cũng không phù hợp với bản chất vụ việc vì đây là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người có tài sản là người nước ngoài tại Việt Nam, pháp luật nên quy định khi đăng ký quyền sở hữu cho công dân Việt Nam có vợ hoặc chồng là người nước ngoài thì đồng thời nên ghi chú có người vợ (hoặc chồng) là người nước ngoài.

Chỉ riêng việc ly hôn có yếu tố nước ngoài, đã có rất nhiều vướng mắc khiến việc áp dụng luật để xử lý triệt để những trường hợp vi phạm các điều cấm khó khăn. Cụ thể, khoản 2, điều 103 Luật HN-GĐ quy định: “Nghiêm cấm lợi dụng việc kết hôn có yếu tố nước ngoài để buôn bán phụ nữ, xâm phạm tình dục đối với phụ nữ hoặc vì mục đích trục lợi khác”. Như vậy, việc kết hôn giả, vì mục đích trục lợi bị cấm, nếu ai thực hiện là trái pháp luật nhưng tòa án không xử lý hủy kết hôn mà lại giải quyết ly hôn vì Luật HN-GĐ không quy định nội dung này.

Trong các vụ ly hôn có yếu tố nước ngoài mà tòa án thụ lý, đa số nguyên đơn là công dân Việt Nam trong nước còn bị đơn là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Theo Nghị quyết 01/2003/NQ-HĐTP, trong trường hợp nguyên đơn không biết địa chỉ bị đơn, không có tin tức về họ thì tòa án ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án, chỉ giải quyết cho nguyên đơn có quyền khởi kiện yêu cầu tòa án cấp huyện nơi họ thường trú tuyên bố bị đơn mất tích hoặc tuyên bố chết. Để có được bản án ly hôn trong trường hợp này, nguyên đơn phải mất hai - ba năm.

Thực tiễn đã cho thấy, vì Luật HN-GĐ quá “giản đơn”, nên phải “cõng” rất nhiều văn bản hướng dẫn thi hành. Nhưng, dù nhiều văn bản, vẫn còn vô số “kẽ hở”. Thiết nghĩ, khi “bổ sung, sửa đổi Luật HN-GĐ”, cần nghiên cứu kỹ các kẽ hở để khắc phục, giải quyết. Tôi kiến nghị, các cơ quan chức năng cần xây dựng Luật Tư pháp quốc tế để điều chỉnh các quan hệ có yếu tố nước ngoài nói chung; đồng thời nghiêm khắc hơn trong việc xử lý các trường hợp vi phạm Luật HN-GĐ.

II- THÔNG TIN KHÁC

1. Trang VnEconomy có bài Khó như xử lý tài sản bảo đảm!. Bài báo phản ánh: Thực tế xử lý tài sản bảo đảm ở các ngân hàng hiện nay cho thấy, có hai dạng thường gặp, đó là: tài sản bảo đảm là động sản và tài sản bảo đảm là bất động sản.

Nợ xấu tăng, kinh doanh khó khăn, các ngân hàng đang gồng mình xử lý tài sản bảo đảm để thu nợ. Nhưng, nếu như xử lý động sản tương đối thuận lợi thì xử lý bất động sản “khó như bắc thang lên trời” mà nguyên nhân chủ yếu là sự chây ì người vay bên cạnh không ít lỗi từ ngân hàng.

Theo Trưởng ban Pháp chế một ngân hàng thương mại cổ phần, mặc dù Nghị định 163/2006/NĐ-Chính phủ (29/12/2006) về giao dịch bảo đảm và Nghị định số 11/2012/NĐ-Chính phủ (22/2/2012) về sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định 163, đã quy định tương đối đầy đủ những điều khoản nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự và xử lý tài sản bảo đảm, đặc biệt là trong các tranh chấp dân sự giữa ngân hàng và người vay, nhưng thực tế không diễn ra như trong luật đã quy định.

“Luật quy định là thế  nhưng để bán được tài sản bảo đảm, thu hồi nợ với những khách hàng chây ỳ thì khó như bắc thang lên trời!”, bà nói.  

Thực tế xử lý tài sản bảo đảm ở các ngân hàng hiện nay cho thấy, có hai dạng thường gặp, đó là: tài sản bảo đảm là động sản và tài sản bảo đảm là bất động sản.

Với tài sản bảo đảm là động sản mà không phải đăng ký quyền sở hữu (máy móc, dây chuyền sản xuất...)  thì theo hai nghị định trên, chỉ cần căn cứ vào những thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng mà ngân hàng và người vay đã ký kết, ngân hàng được phép bán qua đấu giá, thu hồi vốn; nếu còn thừa tiền thì chuyển thẳng vào tài khoản cho khách hàng là xong.

Nhưng, với tài sản bảo đảm là bất động sản (đất, tài sản trên đất...) thì do các tài sản này đòi hỏi phải đăng ký quyền sở hữu và liên quan đến phạm vi điều chỉnh nhiều bộ luật khác. Giả định, khách hàng không chịu ký vào hợp đồng chuyển nhượng nhà đất cho ngân hàng thì không bao giờ ngân hàng bán được để thu hồi nợ.

Ngân hàng có thể mang ra tòa nhưng khác với tòa hình sự, hầu hết tội danh đều được quy định khung hình phạt rất rõ trong luật nên dù chưa xử, ở một chừng mực nào đó, vẫn có thể hình dung được bản án ở mức nào. Nhưng với tòa dân sự thì không như vậy, có khi một vụ việc nhưng phán quyết ở hai tòa rất khác nhau, thậm chí đối lập. 

Theo bà trưởng ban pháp chế nói trên, bên cạnh nhiều vụ tòa cứ theo luật là xử thắng cho ngân hàng nhưng không phải tất cả đều được như vậy. Trong nhiều trường hợp, để thu được nợ, ngân hàng phải... quan hệ tốt với tòa, kể cả khi ngân hàng có đủ chứng cứ hợp pháp! “Tốt” ở đây được hiểu là ngoài sự “thân mật”, còn phải trang bị kiến thức cho tòa để tòa hiểu nội tình, bởi lĩnh vực ngân hàng rất chuyên sâu mà không phải thẩm phán nào cũng am hiểu.

Có được bản án có lợi đã khó nhưng để cơ quan thi hành án làm “ngay và luôn” cho mình là cả vấn đề lớn, bởi cơ quan này cũng rất... bận!

Theo ông Nguyễn Văn Luyện, Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự, từ 1/10/2011 đến 31/3/2012, các cơ quan thi hành án đã thi hành xong 148.389 trên tổng số 274.231 việc có điều kiện thi hành, đạt tỷ lệ 54,11%, thấp hơn 3,94% so với cùng kỳ năm 2011.

Vì thế, ngân hàng cũng phải “sát cánh” với cơ quan này thì mới mong thu được nợ do quyền năng của cơ quan thi hành án có quyền bán đấu giá bất động sản của con nợ để thu nợ cho ngân hàng, bất chấp con nợ có ký giấy chuyển nhượng quyền sở hữu hay không.  

“Giá mà con nợ luôn có ý thức trả nợ và ý thức cùng với ngân hàng xử lý hậu quả khi mất khả năng trả nợ thì sẽ không có chuyện chây ỳ như thế”, bà trưởng ban pháp chế nói trên nói.

2. Báo Tiền phong Online có bài Yêu cầu cấp sổ đỏ cho chung cư mini. Bài báo đưa tin: Phó Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội Vũ Hồng Khanh vừa giao Sở TNMT chủ trì cùng Sở Xây dựng và Sở Tư pháp ra văn bản hướng dẫn UBND các quận, huyện, thị xã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân mua căn hộ chung cư mini, báo cáo kết quả về UBND thành phố trước ngày 10-10.

Sở TNMT có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra, đôn đốc UBND các quận, huyện, thị xã; tổng hợp khó khăn, vướng mắc báo cáo thành phố...

 



File đính kèm