I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Quân đội nhân dân có bài Bộ Chính trị cho ý kiến về tình hình phát triển kinh tế - xã hội các tháng còn lại của năm 2012. Bài báo đưa tin: Sáng 26-4, Bộ Chính trị họp, cho ý kiến về một số vấn đề tình hình kinh tế - xã hội 4 tháng đầu năm; mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp những tháng còn lại năm 2012. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì cuộc họp.
Bốn tháng đầu năm 2012, tình hình kinh tế - xã hội nước ta có nhiều chuyển biến, đạt những kết quả tích cực bước đầu, đúng hướng. Các giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô tiếp tục phát huy hiệu quả. Chỉ số giá tiêu dùng tăng thấp, CPI tháng 4 chỉ tăng 0,05% so với tháng trước và tăng 2,6% so với cuối năm 2011. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng, sản xuất kinh doanh trong điều kiện khó khăn vẫn duy trì tăng trưởng, kim ngạch xuất khẩu ước tăng 22,1% so với cùng kỳ, hoạt động du lịch khá sôi động. An sinh xã hội và phúc lợi xã hội được bảo đảm, các vấn đề bức xúc xã hội được quan tâm giải quyết. Quốc phòng - An ninh được tăng cường, chính trị xã hội ổn định. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế quý I-2012 chỉ đạt 4%, thấp hơn so với cùng kỳ và quý IV-2011. Số doanh nghiệp ngừng sản xuất hoặc giải thể, nợ xấu của các doanh nghiệp tăng cao. Thu ngân sách Nhà nước thấp hơn so với tiến độ các năm trước. Tình trạng quá tải ở các bệnh viện, công tác bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm còn bức xúc; tai nạn giao thông, tệ nạn xã hội, tội phạm, khiếu nại, tố cáo của công dân còn diễn biến phức tạp.
Kết luận buổi làm việc, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cơ bản nhất trí với báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội 4 tháng đầu năm 2012. Tuy nhiên, Tổng bí thư cũng lưu ý, cần đánh giá đúng thực tế, sát với diễn biến tình hình và căn cứ vào các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra, so sánh với các năm trước để thấy rõ kết quả đã đạt được, những mặt còn tồn tại, hạn chế; đồng thời phân tích xu hướng sắp tới, thuận lợi và khó khăn để có giải pháp phù hợp, nhằm thực hiện tốt nhất các mục tiêu nhiệm vụ đã đề ra. Tổng bí thư cho rằng: Cùng với phát triển kinh tế, cần giải quyết thỏa đáng các vấn đề xã hội, vì mục tiêu phát triển bền vững, để mọi người dân đều được hưởng lợi từ quá trình tăng trưởng.
Tổng bí thư đề nghị, trên cơ sở tiếp thu các ý kiến đóng góp tại cuộc họp, Ban cán sự Đảng Chính phủ hoàn thiện báo cáo về tình hình kinh tế - xã hội 4 tháng đầu năm, các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp trong những tháng còn lại của năm 2012, để báo cáo Ban Chấp hành Trung ương và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp sắp tới.
2. Báo Tin tức đưa tin: Ngày 26/4, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân, Trưởng Ban Chỉ đạo liên ngành Trung ương về vệ sinh an toàn thực phẩm đã chủ trì giao ban trực tuyến với 63 tỉnh, thành phố về công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP).
Phát biểu chỉ đạo hội nghị, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân nêu rõ, năm 2012 cần tập trung vào công tác tuyên truyền và giáo dục vận động bà con nông dân và người dân tham gia những cuộc vận động nói không với trồng rau không an toàn; không bán phụ gia thực phẩm bị cấm; không tổ chức giết mổ gia súc, gia cầm nếu chưa đảm bảo VSATTP. Bên cạnh đó, tổ chức kiểm soát VSATTP ở bếp ăn tập thể chặt chẽ hơn, có hướng dẫn và có lộ trình kiểm tra bếp ăn tại các khu công nghiệp, từ đó kiểm soát VSATTP đầu vào, ngăn chặn tình trạng ngộ độc tập thể. Phó Thủ tướng đề nghị trong năm 2012 cần khẩn trương xếp hạng chỉ số về VSATTP tại các địa phương, từ đó so sánh chỉ số này giữa các tỉnh, thành phố. Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khẩn trương ban hành danh mục những chất cấm không được sử dụng trong thực phẩm và chăn nuôi.
Phó Thủ tướng cũng đề cập đến vấn đề thời gian gần đây, một số báo chí đưa tin không đúng sự thật, đưa tin thất thiệt, không có kiểm chứng của cơ quan chức năng gây hoang mang và thiệt hại hàng nghìn tỷ đồng đối với người nông dân như thông tin chất tạo nạc trong thịt lợn, chất cấm trong nuôi cá, gạo giả, trứng gà giả... Theo đó, Phó Thủ tướng giao Bộ Thông tin và Truyền thông soạn thảo thông tư liên tịch giữa các bộ, trong đó Bộ Y tế chủ trì là cơ quan phát ngôn, trong tháng 6 tới ban hành hướng dẫn chi tiết, từ đó áp dụng chế tài nghiêm khắc đối với phóng viên và cơ quan báo chí đưa tin không đúng sự thật, gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho người dân, cũng như tạo điều kiện để cho các cơ quan báo chí được quyền tiếp cận thông tin nhanh và chính xác.
3. Báo điện tử Chính phủ có bài Bộ Công an công bố kết quả giám định nguyên nhân các vụ cháy xe. Bài báo phản ánh: Tại cuộc họp báo hôm nay 26/4, Bộ Công an công bố 5 nguyên nhân gây cháy xe gồm chập điện (chiếm 30,25% số vụ), sự cố kỹ thuật (15,1%), sơ suất (9,8%), tai nạn giao thông (4,63%) và do đốt (4,32%); không có nguyên nhân do xăng dầu.
II-NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Công lý có bài “Trẻ em” là độ tuổi nào? Bài báo phản ánh: Trẻ em, theo cách hiểu thông thường trong xã hội là những đứa trẻ nhỏ, chưa trưởng thành. Tuy nhiên, đến độ tuổi nào thì không còn là trẻ em nữa? Về khái niệm “trẻ em”, hiện nay pháp luật vẫn còn nhiều quy định khác nhau, thậm chí chồng chéo nhau.
Theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thì trẻ em là người dưới 16 tuổi. Ở đây ta thấy phạm vi quy định những người là trẻ em rộng hơn so với cách hiểu thông thường từ trước đến nay. Đồng tình với quan điểm này, Luật Thanh niên quy định thanh niên là người từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi.
Ở khía cạnh khác, Điều 6 Bộ luật Lao động quy định: Người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi, có khả năng lao động và có giao kết hợp đồng lao động. Thông tư liên tịch số 21/2004/BLĐTBXH- BYT ngày 9-12-2004 hướng dẫn quy định danh mục chỗ làm việc, công việc không được sử dụng lao động dưới 18 tuổi trong các cơ sở kinh doanh dịch vụ dễ bị lợi dụng để họat động mại dâm. Theo Công ước 182 - Công ước nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất (1999) mà Việt Nam đã tham gia thì thuật ngữ “trẻ em” áp dụng cho tất cả những người dưới 18 tuổi.
Về mặt dân sự, ở khía cạnh cơ bản nhất, Bộ luật Dân sự 2005 quy định: “Người từ đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên”. Người chưa thành niên khi xác lập giao dịch dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật. Tuy nhiên, cũng tại Bộ luật Dân sự 2005 lại quy định: Trong trường hợp người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà không cần phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật. Đã là người thành niên (đủ 18 tuổi) nhưng theo Luật Hôn nhân và gia đình thì các nam thanh niên chưa đủ 20 tuổi vẫn bị cấm kết hôn; nếu có quan hệ vợ chồng với người khác rất có nguy cơ bị tội tảo hôn.
Về mặt hình sự, Bộ luật Hình sự quy định, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Người có hành vi giao cấu với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì phạm tội giao cấu với trẻ em. Giao cấu với người từ đủ 16 tuổi trở lên mà thuận tình thì pháp luật không điều chỉnh. Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi đều phạm tội hiếp dâm trẻ em.
Điểm qua các quy định pháp luật liên quan đến trẻ em, chúng ta thấy rằng, không dễ để mọi người trong xã hội hiểu chính xác về độ tuổi trẻ em mà pháp luật quy định. Quá nhiều quy định về độ tuổi trẻ em và rồi từ đó có nhiều người không hiểu rõ, dẫn đến những hậu quả pháp lý khó lường. Điều này các nhà làm luật cần cân nhắc, suy nghĩ.
2. Báo Đại đoàn kết có bài Cần cấm hôn nhân cận huyết thống. Bài báo đưa câu hỏi của Ông Giàng A Vừng (Cán bộ Mặt trận xã Len Su Sìn, huyện Mường Nhé, Điện Biên ) như sau: Điều 64, Hiến pháp 1992 đã quy định: công dân các dân tộc được hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện nhưng hiện nay tình trạng hôn nhân cận huyết thống ngày càng tăng. Để giảm bớt tình trạng này, MTTQ có kiến nghị, sửa đổi bổ sung Điều 64 của Hiến pháp và sửa đổi như thế nào?
Trả lời của Ông Lù Văn Que (Chủ nhiệm Hội đồng tư vấn về Dân tộc- UBTƯ MTTQ Việt Nam): Trong 30 năm qua, dân số nước ta đều tăng, nhưng có một số dân tộc thiểu số đang suy giảm dân số do tình trạng hôn nhân cận huyết thống tăng, dẫn tới các bệnh dị tật bẩm sinh, trí tuệ kém phát triển và tỷ lệ tử vong cao.
Hội đồng tư vấn về Dân tộc của UBTƯ MTTQ Việt Nam đã có kiến nghị lên Ban Thường trực MTTQ Việt Nam để Ban Thường trực có ý kiến sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 về phần dân tộc, trong đó có Điều 64, Hiến pháp cần có quy định cụ thể giải quyết tình trạng này: Công dân các dân tộc được hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện nhưng cấm hôn nhân cận huyết thống, tảo hôn. Đó là việc làm nhằm nâng cao chất lượng giống nòi, chăm lo xây dựng con người Việt Nam có sức khỏe, có trí tuệ... là vốn quý nhất của mỗi con người và toàn xã hội.
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Cần cơ chế kiểm soát chất lượng giám định. Bài báo đưa tin: Sáng 26-4, Đoàn đại biểu Quốc hội TP.HCM đã tổ chức hội thảo góp ý dự luật Giám định tư pháp (GĐTP).
Nhiều ý kiến tập trung thảo luận về cơ cấu tổ chức, hoạt động của GĐTP công lập, cơ chế xã hội hóa GĐTP các lĩnh vực khác, tiêu chuẩn, trách nhiệm của người giám định… nhằm đảm bảo chất lượng kết quả GĐTP.
ThS Trần Văn Bảy (Trưởng phòng Bổ trợ tư pháp - Sở Tư pháp TP.HCM) bày tỏ lo ngại: Lâu nay các cơ quan tố tụng căn cứ vào kết luận giám định để xét xử nhưng các tổ chức giám định làm gì, hoạt động ra sao thì ít ai biết, chưa nghe ai thanh tra, giám sát họ. Vấn đề kiểm soát trong lĩnh vực giám định hiện vẫn còn bỏ ngỏ. Chúng ta buộc lòng phải tin tưởng vào kết luận của đơn vị giám định bằng niềm tin nội tâm. Việc dự thảo quy định vắn tắt là giao nhiệm vụ cho các bộ kiểm tra, thanh tra và giải quyết khiếu nại tố cáo về GĐTP trong lĩnh vực quản lý theo thẩm quyền e rằng chưa đủ đáp ứng thực tiễn phức tạp để đảm bảo tính khách quan, trung thực của kết quả giám định. Do vậy rất cần xây dựng một chương riêng với các điều khoản kiểm tra, xử lý cụ thể các vi phạm. Nhất là trong tiến trình xã hội hóa lĩnh vực GĐTP càng rất cần có cơ chế kiểm soát chất lượng giám định chặt hơn để đảm bảo giá trị pháp lý ngang bằng giữa giám định tư hay công lập, tránh tạo kẽ hở cho đương sự tác động tiêu cực.
Theo dự thảo quy định, người tiến hành GĐTP có thể là giám định viên (GĐV) được bổ nhiệm hay người có chuyên môn được yêu cầu GĐTP theo vụ việc. Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng cần quy định thống nhất chỉ có chức danh GĐV mới được phép hoạt động GĐTP. Do tính chất quan trọng đặc thù trong lĩnh vực này nên chỉ có GĐV với tiêu chuẩn bổ nhiệm chặt chẽ, chịu trách nhiệm rất cao mới đáp ứng được yêu cầu công việc. Nếu người GĐTP theo vụ việc có đủ tiêu chuẩn năng lực thì nên công nhận chức danh GĐV để họ hoạt động ngang tầm, không thể chấp nhận tồn tại tình trạng người GĐTP theo vụ việc có tiêu chuẩn trình độ năng lực thấp hơn GĐV. Ngoài ra, GĐV phải tuyên thệ khi hoạt động nghề nghiệp. Các văn phòng giám định ngoài công lập còn phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp…
4. Báo Tiền phong Online có bài Hà Nội kiến nghị tịch thu xe đua. Bài báo phản ánh: UBND TP Hà Nội vừa có văn bản gửi Bộ GTVT và Bộ Tư pháp đề xuất sửa đổi, bổ sung Nghị định 34 theo hướng nâng mức xử lý vi phạm cao hơn hiện nay.
Cụ thể, Hà Nội kiến nghị tăng mức phạt tiền đối với các hành vi vi phạm trong nội đô lên gấp 2 lần so với hiện nay và cho phép tịch thu phương tiện đối với người điều khiển vi phạm như đua xe trái phép…
Theo UBND TP Hà Nội, trong thời gian qua, tai nạn giao thông trong nội thành giảm cả về số vụ tai nạn, số người chết, số người bị thương. Tuy nhiên, việc sử dụng camera hỗ trợ xử lý vi phạm chưa phát huy hiệu quả, do số camera được trang bị còn quá ít. Hiện chỉ có 34 camera quan sát được lắp đặt tại các nút giao thông trọng điểm trong nội đô.
5. Báo Tuổi trể Online có bài Đền bù đất đai không đúng “tiền tươi thóc thật”. Bài báo phản ánh: Luật sư Lê Đức Tiết - phó chủ nhiệm Hội đồng tư vấn về dân chủ và pháp luật của MTTQ VN - cho biết như vậy khi được hỏi về nguyên nhân của các tranh chấp, khiếu kiện liên quan đến đất đai.
Trao đổi với Tuổi Trẻ ngày 25-4, luật sư Lê Đức Tiết khẳng định: “Khiếu kiện về đất đai chiếm đến trên 70% tổng số đơn thư khiếu kiện. Chính phủ đã nỗ lực, tập trung giải quyết nhưng đến nay kết quả chưa đạt được như mong muốn là do chưa giải quyết được tận gốc vấn đề trong Luật đất đai”.
* Thực tế tình trạng khiếu kiện phản ánh bất cập gì trong Luật đất đai, phải làm thế nào để giải quyết tận gốc vấn đề này, thưa ông?
- Muốn giải quyết được những bất cập trong quản lý đất đai, tình trạng khiếu kiện về đất đai hiện nay thì phải giải quyết vấn đề sở hữu. Hiện nay pháp luật chúng ta quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân.
Tôi cho rằng tới đây sửa hiến pháp và Luật đất đai cần quy định ba hình thức sở hữu, bao gồm: sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Bất cập lớn nhất là hiện tại chúng ta không quy định quyền sở hữu tư nhân về đất đai, trong khi quyền này là một trong các quyền tự nhiên của con người.
* Như vậy Nhà nước sẽ sở hữu những loại đất nào? Loại đất nào sẽ cho phép sở hữu tư nhân?
- Nhà nước phải sở hữu đất dành cho quốc phòng, an ninh, công trình quan trọng quốc gia, đất dự phòng và một số loại đất quan trọng khác. Cá nhân được quyền sở hữu đất ở và đất canh tác theo hạn mức được quy định trên cơ sở đáp ứng nhu cầu ở, sản xuất và vấn đề bình đẳng xã hội. Ngoài hạn mức được sở hữu, nếu muốn thì cá nhân có thể thuê, mua lại của cá nhân khác hoặc thuê của Nhà nước.
* Nhưng có những ý kiến lo ngại rằng quy định sở hữu cá nhân sẽ gây khó khăn cho công tác quy hoạch, giải phóng mặt bằng khi thực hiện các dự án?
- Vấn đề này hoàn toàn xử lý được bằng luật pháp một cách rạch ròi và sòng phẳng. Nếu Nhà nước lấy đất của cá nhân phục vụ mục đích an ninh, quốc phòng, công trình quan trọng quốc gia, phúc lợi xã hội thì Nhà nước có quyền trưng dụng, trưng mua trên cơ sở thỏa thuận với người chủ sở hữu theo nguyên tắc hài hòa lợi ích nhà nước và đảm bảo quyền lợi công dân. Còn liên quan đến các dự án kinh tế thì phải đảm bảo nguyên tắc cao nhất là thỏa thuận giữa người có đất với chủ dự án, với doanh nghiệp theo cơ chế thị trường.
* Lâu nay chúng ta vẫn quy định nguyên tắc là đền bù phải sát giá thị trường?
- Hiện nay HĐND các địa phương được quyền quyết định khung giá đất hàng năm. Dựa trên khung giá này mà người ta lập phương án đền bù, giải phóng mặt bằng cho các dự án. Tuy nói là theo sát giá thị trường nhưng chính Nhà nước cũng lúng túng trong việc quy định thế nào là giá thị trường và giá thị trường cũng biến động trong các thời điểm khác nhau.
Không ít nơi, khung giá đất do Nhà nước quy định không theo sát giá thị trường, giá đền bù không đúng với giá “tiền tươi thóc thật” mà người dân bán đất. Đây chính là mấu chốt vấn đề, làm nảy sinh khiếu kiện, tiêu cực và tham nhũng. Một mặt anh nói là thỏa thuận theo nguyên tắc thị trường, nhưng trên thực tế thì áp giá dựa trên khung giá được quy định.
* Theo ông, có nên tiếp tục lấy đất canh tác của dân giao cho doanh nghiệp thực hiện các dự án kinh tế, bất động sản?
- Về vấn đề này, tôi theo dõi thấy nhiều đại biểu Quốc hội đã phát biểu là không nên lấy đất bờ xôi ruộng mật làm khu công nghiệp, dự án bất động sản. Theo tôi nghĩ, vấn đề quan trọng ở đây là nếu một khi đã phân biệt rõ đất sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân thì sẽ rất dễ xử lý khi thu hồi đất. Ví dụ, nếu đất đó là đất công thì dựa trên quy hoạch, Nhà nước cho đấu giá để cấp cho các dự án phục vụ công nghiệp hóa, đô thị hóa. Còn thu hồi đất thuộc sở hữu cá nhân thì phải quy định rõ quyền của người dân trên nguyên tắc cao nhất là thỏa thuận.
Đất đai là tư liệu sản xuất của người dân, do đó khi thu hồi vào mục đích kinh doanh thì nên quy định cơ chế để người dân dùng mảnh đất đó góp cổ phần vào dự án chứ không phải lúc nào cũng mua đứt bán đoạn.
III. CÁC THÔNG TIN KHÁC
1. Báo Hà Nội mới có bài Năm 2012, siết chặt việc tăng biên chế. Bài báo phản ánh: Đây là thông tin được nêu ra trong cuộc gặp của Bộ Nội vụ với các cơ quan thông tấn, báo chí ngày 26-4 để cung cấp thông tin về kết quả công tác tháng 4-2012.
Theo Thứ trưởng Bộ Nội vụ Trần Anh Tuấn, Bộ Nội vụ đã báo cáo, giải trình Thủ tướng Chính phủ về tăng biên chế công chức năm 2012 (tại Công văn số 1230/BNV-TCBC ngày 30-3-2012). Theo đó, trong năm 2012, biên chế chỉ tăng 1.449 người (trong đó các cơ quan trung ương tăng 39 người, còn lại giao cho 63 tỉnh, thành phố). Thứ trưởng Trần Anh Tuấn khẳng định, thời gian tới, việc tăng, giảm biên chế sẽ được siết chặt, căn cứ trên cơ sở xác định vị trí việc làm. Do đó, việc tăng biên chế sẽ chỉ áp dụng đối với các tổ chức mới thành lập, các cơ quan có thêm chức năng, nhiệm vụ mới.
Bộ Nội vụ cũng cho biết, trong 5 năm thực hiện Nghị định 132/2007/NĐ-CP của Chính phủ về chế độ chính sách tinh giản biên chế đã tinh giản được hơn 54.000 người. Sắp tới, Bộ Nội vụ sẽ đề nghị Chính phủ cho tiếp tục thực hiện Nghị định 132 nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước.
2. Báo Dân Việt có bài: Cấm tỉnh Thừa Thiên - Huế lấy rừng phòng hộ làm sân golf. Bài báo phản ánh: Ngày 25.4, Văn phòng Chính phủ có Công văn số 2871/VPCP - ĐP thông báo ý kiến của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải về báo cáo của UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế đối với kết quả kiểm tra thông tin phá rừng làm sân golf Lăng Cô mà Báo NTNN số ra ngày 17.2.2012 đã phản ánh.
Phó Thủ tướng yêu cầu UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế tuân thủ quy định tại Quyết định số 1946/QĐ-TTg ngày 26.11.2011 của Thủ tướng Chính phủ về đầu tư xây dựng sân golf; tuyệt đối không được sử dụng đất lúa (kể cả đất lúa một vụ năng suất thấp), đất màu, đất rừng phòng hộ, rừng đặc dụng để đầu tư sân golf, có biện pháp tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy hoạch sân golf trên địa bàn.
Trước đó, ngày 27.2, Văn phòng Chính phủ ra Thông báo số 1109/VPCP truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải yêu cầu UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế làm rõ thông tin dự án sân golf nuốt 250ha rừng phòng hộ ven biển xã Lộc Vĩnh (huyện Phú Lộc) mà Báo NTNN đã phản ánh, báo cáo Thủ tướng trước ngày 20.3.
Bài báo của NTNN, phản ánh từ khi Công ty cổ phần Đầu tư phát triển Phong Phú Lăng Cô được UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế cấp phép đầu tư Khu du lịch nghỉ dưỡng, sân golf Lăng Cô trên địa bàn thôn Phú Hải 2, xã Lộc Vĩnh, huyện Phú Lộc vừa làm người dân mất đất sản xuất, cuộc sống bị đảo lộn, vừa xoá sổ 250ha rừng phòng hộ ven biển bao đời nay che chắn, bảo vệ làng mạc.