Nghị định này áp dụng đối với tổ chức, cá nhân Việt Nam hợp tác, đầu tư với nước ngoài, đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực khoa học và công nghệ; tổ chức, cá nhân nước ngoài hợp tác, đầu tư trong lĩnh vực khoa học và công nghệ tại Việt Nam. Nghị định này không quy định về hình thức, nội dung, thẩm quyền, trình tự, thủ tục hợp tác, đầu tư với nước ngoài để thành lập trường đại học, học viện, trường cao đẳng.
Hoạt động hợp tác, đầu tư với nước ngoài trong lĩnh vực khoa học và công nghệ theo quy định của pháp luật Việt Nam về khoa học và công nghệ, về đầu tư và các quy định khác của pháp luật; trường hợp hoạt động hợp tác, đầu tư trong lĩnh vực khoa học và công nghệ có tính chất đặc thù được quy định trong luật khác thì áp dụng quy định của luật đó. Trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Nghị định này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.
Tổ chức, cá nhân nước ngoài có thể thỏa thuận hoặc đề nghị áp dụng pháp luật nước ngoài và tập quán quốc tế trong hoạt động hợp tác, đầu tư với Việt Nam trong lĩnh vực khoa học và công nghệ nếu pháp luật nước ngoài, tập quán quốc tế đó không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
Nghị định khuyến khích tổ chức, cá nhân nước ngoài hợp tác, đầu tư trong các lĩnh vực: nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực khoa học tự nhiên; nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa và cơ điện tử; đào tạo và phát triển nhân lực công nghệ cao; phát triển công nghiệp công nghệ cao tại Việt Nam; chuyển giao công nghệ và dịch vụ khoa học và công nghệ; lập hoặc đóng góp xây dựng các quỹ phát triển khoa học và công nghệ tại Việt Nam.
Việc hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực khoa học công nghệ có thể thông qua các hình thức như: viện trợ, tài trợ, biếu, hiến, tặng để hoạt động khoa học và công nghệ; hợp đồng khoa học và công nghệ; liên kết, tham gia hoạt động khoa học và công nghệ với nước ngoài, bao gồm tham gia tổ chức khoa học và công nghệ, hội khoa học và công nghệ, tham gia hoạt động nghiên cứu, đào tạo, tư vấn, hội nghị, hội thảo khoa học và công nghệ của tổ chức quốc tế, tổ chức, cá nhân nước ngoài; tham gia các hoạt động hợp tác thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ ở Việt Nam và ở nước ngoài. Hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực khoa học và công nghệ phải lập thành hợp đồng hoặc văn bản thỏa thuận hợp tác.
Nghị định quy định hai hình thức đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực khoa học công nghệ là đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Việc đầu tư trực tiếp có thể thông qua hình thức thành lập tổ chức khoa học và công nghệ, doanh nghiệp khoa học và công nghệ 100% vốn đầu tư nước ngoài hoặc thành lập tổ chức khoa học và công nghệ, doanh nghiệp khoa học và công nghệ liên doanh giữa tổ chức, cá nhân Việt Nam và tổ chức, cá nhân nước ngoài. Còn đầu tư gián tiếp theo quy định cụ thể của pháp luật Việt Nam.
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 9 năm 2010./
Lê Văn Nhật