Hướng dẫn công tác thi đua, khen thưởng trong ngành Tư pháp

17/10/2015
Bộ Tư pháp vừa ban hành Thông tư số 14/2015/TT-BTP ngày 14/10/2015 hướng dẫn công tác thi đua, khen thưởng trong ngành Tư pháp.

Theo đó, Thông tư này hướng dẫn một số nội dung về đối tượng thi đua, khen thưởng; tổ chức phát động phong trào thi đua; danh hiệu thi đua và tiêu chuẩn danh hiệu thi đua; hình thức khen thưởng và tiêu chuẩn hình thức khen thưởng; thẩm quyền quyết định, thủ tục, hồ sơ đề nghị khen thưởng; Hội đồng Thi đua - Khen thưởng, Hội đồng khoa học, sáng kiến; Cụm, Khu vực thi đua và Quỹ Thi đua - Khen thưởng ngành Tư pháp.

Nguyên tắc và căn cứ xét khen thưởng

Việc khen thưởng trong ngành Tư pháp được thực hiện theo các nguyên tắc như: Chính xác, công khai, công bằng, kịp thời, thiết thực; Một hình thức khen thưởng có thể tặng nhiều lần cho một đối tượng; không tặng thưởng nhiều hình thức cho một thành tích đạt được; không nhất thiết khen thưởng theo trình tự có mức khen thưởng thấp rồi mới khen thưởng mức cao hơn; Bảo đảm thống nhất giữa tính chất, hình thức và đối tượng khen thưởng; Kết hợp động viên tinh thần với khuyến khích bằng lợi ích vật chất; Đối với hình thức khen thưởng cấp Nhà nước (từ Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ trở lên) trong một năm mỗi cá nhân chỉ được xét tặng một hình thức, trừ trường hợp khen cống hiến, khen thành tích đột xuất, khen thưởng theo chuyên đề. Khi Bộ Tư pháp tiến hành sơ kết, tổng kết việc thực hiện luật, pháp lệnh, nghị định hoặc phục vụ hội nghị, hội thảo, diễn đàn... các cơ quan, đơn vị không đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp trình Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch nước tặng thưởng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Huân chương cho các tập thể hoặc cá nhân; Hình thức kỷ luật của cá nhân chỉ được xem xét một lần đối với một hình thức khen thưởng (những lần xét khen sau không căn cứ vào hình thức kỷ luật đã xét lần trước); Bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giới trong thi đua, khen thưởng.

Việc xét khen thưởng trong ngành Tư pháp được thực hiện theo các căn cứ như: Việc xét tặng các danh hiệu thi đua phải căn cứ vào phong trào thi đua; mọi cá nhân, tập thể tham gia phong trào thi đua đều phải có đăng ký thi đua, xác định mục tiêu, chỉ tiêu thi đua; không đăng ký thi đua sẽ không được xem xét, công nhận các danh hiệu thi đua; Thành tích đến đâu khen thưởng đến đó; thành tích đạt được trong điều kiện khó khăn có phạm vi ảnh hưởng lớn được khen thưởng mức cao hơn; Khi xét khen thưởng người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phải căn cứ vào thành tích của tập thể do cá nhân đó lãnh đạo; Đối với nữ là cán bộ lãnh đạo quản lý, thời gian giữ chức vụ để xét khen thưởng có quá trình cống hiến được giảm 03 năm so với quy định chung; Đối với khen thưởng thành tích thường xuyên, khi có nhiều cá nhân, tập thể cùng đủ điều kiện, tiêu chuẩn thì lựa chọn cá nhân nữ và tập thể có tỷ lệ nữ từ 70% trở lên để xét khen thưởng; Thời gian để đề nghị khen thưởng cho lần tiếp theo được tính từ khi có quyết định khen thưởng lần trước; Việc bình xét khen thưởng phải trên cơ sở kết quả đánh giá, xác định mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động; của cơ quan, đơn vị.

Hình thức và nội dung tổ chức phát động phong trào thi đua

Các hình thức thi đua được tổ chức, phát động trong ngành Tư pháp bao gồm: Thi đua thường xuyên là hình thức thi đua căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao của cá nhân, tập thể để tổ chức phát động phong trào thi đua, ký kết giao ước thi đua, theo đó xác định rõ mục đích, yêu cầu, mục tiêu, các chỉ tiêu cụ thể để triển khai thực hiện tại cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc theo Cụm, Khu vực thi đua nhằm thực hiện tốt công việc hàng ngày, hàng tháng, hàng quý, hàng năm theo chỉ tiêu, chương trình công tác đã được cơ quan, đơn vị, Cụm, Khu vực đề ra; Thi đua theo chuyên đề hoặc theo đợt là hình thức thi đua được tổ chức trong phạm vi Bộ, ngành, cơ quan, đơn vị nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ trọng tâm được xác định trong khoảng thời gian nhất định hoặc tổ chức thi đua để phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ đột xuất, cấp bách của Bộ, ngành, cơ quan, đơn vị. Thi đua theo chuyên đề, theo đợt chỉ được phát động khi đã xác định rõ mục đích, yêu cầu, chỉ tiêu, nội dung, giải pháp và thời gian thực hiện.

Nội dung tổ chức phong trào thi đua trong ngành Tư pháp được thực hiện theo quy định tại Điều 7 Nghị định số 42/2010/NĐ-CP của Chính phủ; Điều 3 Thông tư 07/2014/TT-BNV của Bộ Nội vụ.

Thẩm quyền quyết định tặng danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng trong ngành Tư pháp

Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định tặng danh hiệu “Cờ thi đua ngành Tư pháp”, danh hiệu “Chiến sĩ thi đua ngành Tư pháp”, danh hiệu “Tập thể lao động xuất sắc”, Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp Tư pháp” và Bằng khen cho các tập thể, cá nhân trong ngành Tư pháp phù hợp với đối tượng thi đua và khen thưởng quy định tại Thông tư này; danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cơ sở”, danh hiệu “Lao động tiên tiến” và “Tập thể lao động tiên tiến” cho các tập thể, cá nhân của các đơn vị thuộc Bộ không có tư cách pháp nhân.

Thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp có tư cách pháp nhân quyết định tặng danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cơ sở”, danh hiệu “Lao động tiên tiến”, “Tập thể lao động tiên tiến” và Giấy khen cho các tập thể và cá nhân thuộc đơn vị mình.

Thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp không có tư cách pháp nhân quyết định tặng Giấy khen cho các tập thể và cá nhân thuộc thẩm quyền quản lý; ký Quyết định thừa lệnh Bộ trưởng và đóng dấu Bộ sau khi được Bộ trưởng Bộ Tư pháp phê duyệt đối với các danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cơ sở”, danh hiệu “Lao động tiên tiến” và “Tập thể lao động tiên tiến” cho các tập thể và cá nhân thuộc đơn vị mình.

Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự quyết định tặng danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cơ sở”, danh hiệu “Lao động tiên tiến”, “Tập thể lao động tiên tiến” cho tập thể là Cục Thi hành án dân dân sự, cho cá nhân là Cục trưởng, Phó Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự và cá nhân, tập thể thuộc cơ quan Tổng cục; tặng Giấy khen cho các tập thể và cá nhân thuộc thẩm quyền quản lý.

Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự quyết định tặng danh hiệu “Chiến sĩ thi đua cơ sở”, danh hiệu “Lao động tiên tiến”, “Tập thể lao động tiên tiến” và Giấy khen cho cá nhân, tập thể thuộc Cục Thi hành án dân sự và các Chi cục Thi hành án dân sự.

Thông tư này có hiệu lực thi hành từ ngày 27/11/2015 thay thế Thông tư số 06/2011/TT-BTP ngày 7/3/2011 của Bộ Tư pháp hướng dẫn công tác thi đua, khen thưởng trong ngành Tư pháp.