Nghiệp vụ xác minh, thu thập chứng cứ thanh tra bằng phương pháp đối chất

02/04/2008
Trong công tác thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhiều cán bộ thanh tra lầm tưởng đối chất là biện pháp “thần diệu” để tìm ra sự thật. Nhưng thực tế thì hiệu quả của biện pháp này chưa cao, thậm chí dẫn đến bế tắc, thất bại. Để phần nào giúp cán bộ làm công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo tháo gỡ khoá khăn, lúng túng khi áp dụng phương pháp đối chất, chúng tôi xin trình bày những vấn đề cơ bản của phương pháp “đặc biệt” này.

1. Nhận thức chung về phương pháp đối chất

Đối chất là hoạt động thanh tra do Thanh tra viên thực hiện bằng cách đồng thời hỏi hai người về cùng một vấn đề nhằm làm rõ hay loại bỏ mâu thuẫn tồn tại giữa những lời khai trước đây của họ.

Trong quá trình thanh tra, khi chất vấn đối tượng thanh tra (sau đây viết tắt là ĐTTT), lấy lời khai người làm chứng, có những trường hợp phát hiện thấy mâu thuẫn trong lời khai giữa hai hay nhiều người. Trong những trường hợp này thanh tra  viên có thể đưa hai người ra hỏi cùng một lúc để làm rõ hay loại bỏ những mâu thuẫn đó. Hoạt động này được gọi là đối chất.

Đối chất là một hình thức hỏi "đặc biệt", nó phải tuân thủ đúng quy định của chất vấn ĐTTT, lấy lời khai của người làm chứng cũng như quy định riêng cho đối chất. Kết quả đối chất có giá trị pháp lý khi đối chất thực hiện đúng các  quy định của pháp luật.

Là một hoạt động nghiệp vụ thanh tra, đối chất không chỉ tuân theo mà còn phải được thực hiện một cách linh hoạt, sáng tạo, thích ứng với từng tình huống nghiệp vụ và đáp ứng những yêu cầu nghiệp vụ đặt ra. Với những đặc điểm riêng biệt, đối chất sẽ trở nên sắc bén khi được vận dụng đúng luật, ở trình độ nghiệp vụ cao.

Đặc trưng căn bản của đối chất là:

- Hỏi hai người cùng một lúc.                                                                

- Hỏi về cùng một vấn đề của sự việc mà giữa lời khai của họ có tồn tại mâu thuẫn.

Việc hỏi đồng thời hai người trong cùng bối cảnh không gian thời gian sẽ thiết lập những điều kiện để hai người được tri giác trực tiếp nội dung lời khai và thái độ của nhau trong quá trình đối chất, là động lực thúc đẩy tác động tâm lý nhiều  chiều đối với những người được đưa ra đối chất. Sự tác động lẫn nhau giữa hai người bằng chính sự hiện diện của họ đối với nhau thông qua cử chỉ lời khai... trong cuộc đối chất có ý nghĩa như một loại "phương tiện" tác động tâm lý đặc biệt, riêng có của đối chất mà những hình thức hỏi từng người trong thanh tra không thể có được.

Người đưa ra đối chất là ĐTTT, đối tượng liên quan, người làm chứng. Đối chất được thực hiện giữ các loại người hay giữa từng loại người đó với nhau hình thành các cặp đối chất. Trong các cặp đó phổ biến là đối chất giữa ĐTTT với ĐTTT, ĐTTT với người không phải là ĐTTT. Nguyên nhân chính của hiện tượng này là do ĐTTT thường khai dối, còn những người khác dễ khai thực hơn. Bởi vậy, mâu thuẫn nảy sinh trong lời khai giữa ĐTTT với ĐTTT, ĐTTT với những người khác phổ biến hơn những người không phải là ĐTTT với nhau.

Những người được đưa ra đối chất có thể biết nhau từ trước hoặc hoàn toàn không biết nhau. Song điều quan trọng là giữa họ đã có những lời khai mâu thuẫn nhau về cùng sự kiện có ý nghĩa quan trọng với quá trình thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Trên thực tế những người này có thể đã cùng tham gia vào sự kiện đó hoặc chỉ tri giác trực tiếp sự kiện, thậm chí một hoặc cả  hai người chưa từng được tri giác sự kiện. Thanh tra viên có thể có chứng cứ xác định lời khai đúng, lời khai sai, hoặc hoàn toàn không có căn cứ xác định lời khai nào đúng, lời khai nào sai. Mức độ mâu thuẫn giữa các lời khai cũng khác nhau, lời khai của người này phủ định lời khai của người kia, lời khai của mỗi người phản ánh sai lạc những nội dung sự kiện có liên quan đến vụ việc.

Quá trình đối chất thường diễn ra trong điều kiện có xung đột tâm lý gay gắt, những xung đột này mang tính chủ quan hay khách quan tuỳ thuộc nguyên nhân tạo nên mâu thuẫn giữa các lời khai là nguyên nhân chủ quan hay khách quan. Những nguyên nhân này là độc lực trực tiếp thúc đẩy những người tham gia đối chất nỗ lực cố gắng bảo vệ lời khai của mình. Ở thời điểm đó những hành vi đối phó với cơ quan thanh tra thường bộc lộ rõ rệt, họ có thể lợi dụng mọi điều kiện để thông đồng đối phó hoặc có những hành vi gây hại khác không có lợi cho cuộc thanh tra. Điều này đòi hỏi Thanh tra viên phải dự tính và có biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn hậu quả xấu có thể xảy ra. Đây là mặt hạn chế của đối chất khiến hoạt động này trở lên phức tạp và khó khăn so với các hoạt động thanh tra khác. Trong mọi cuộc đối chất sự hiện diện liên tục của Thanh tra viên với vai trò tổ chức chẳng những đảm bảo cho đối chất diễn ra đúng luật pháp, tránh được những tình huống bất lợi có thể xảy ra mà còn là một tác động tích cực, quan trọng đến người bị đưa ra đối chất để có sự phán đoán và nhận định đúng về nguyên nhân và những vấn đề khác nhau của mâu thuẫn. Vai trò của Thanh tra viên có nghĩa quyết định kết quả đối chất. Đối chất không có kết quả cao thậm chí phản tác dụng nếu như Thanh tra viên tự biến mình thành người thư ký thụ động của cuộc đối chất hay tỏ ra lơ là, thiếu sắc bén khi tổ chức thực hiện đối chất.

Mục đích của đối chất là làm rõ mâu thuẫn tồn tại trong lời khai giữa những người được đưa ra chất, nghĩa là làm rõ nguyên nhân, nội dung cụ thể của mâu thuẫn; tính đúng đắn, sự tin cậy của những căn cứ mà mỗi người đưa ra chứng minh cho lời khai của mình trong quá trình đối chất và những vấn đề khác có liên quan đến mâu thuẫn. Qua đó sự thực khách quan được làm sáng tỏ, mâu thuẫn trong lời khai giữa họ được loại trừ, một hoặc hai người được đưa ra đối chất từ bỏ quan điểm cũ, đưa ra lời khai mới đúng sự thật. Trong trường hợp này đối chất có tác dụng giúp Thanh tra viên thu được những căn cứ khẳng định lời khai đúng, bác bỏ lời khai sai, từ đó định hướng các biện pháp thanh tra tiếp tục một cách phù hợp. Đồng thời có thêm những căn cứ kết luận tính chất của vụ việc, kết luận người nào đó đúng hay sai; nếu sai phạm thì tính chất, mức độ cụ thể như thế nào... do đó quá trình thanh tra, xử lý được thấu tình, đạt lý.

Trong trường hợp mâu thuẫn vẫn không được gạt bỏ, nghĩa là những người đưa ra đối chất vẫn giữ nguyên lời khai của mình thì đối chất vẫn có tác dụng giúp Thanh tra viên có thêm căn cứ nhận định thái độ khai báo của mỗi người, tìm hiểu những vấn đề khác có liên quan đến mâu thuẫn thông qua những biện pháp tâm lý, những hành vi, những căn cứ của mỗi người đã đưa ra để chứng minh nhằm giữ nguyên lời khai. Đó cũng là cơ sở để Thanh tra viên chuẩn bị những biện pháp, những kỹ thuật, nghiệp vụ thanh tra tiếp theo được đúng đắn. Ngoài ra, đối chất còn có thể tạo điều kiện cho người tham gia đối chất nhớ lại đầy đủ những sự kiện mà họ đã quên. Sự tác động này thường mạnh mẽ và có sức thuyết phục vì tính xác thực, có căn cứ của lời khai và ấn tượng sự có mặt kia tồn tại trong mỗi người khi đối chất.

Trong một số trường hợp đối chất còn củng cố thêm ý chí, lập trường của những người đã có lời khai thực, đồng thời vạch trần lời khai dối, đấu tranh với thái độ ngoan cố của những người thiếu thành khẩn, nhất là khi Thanh tra viên đã có căn cứ khẳng định lời khai đúng, lời khai sai.

Đối chất có tác dụng trong thanh tra, xử lý, nhưng có trường hợp đối chất không khắc phục được mâu thuẫn trong lời khai giữa các đối tượng. Hiểu rõ, hiểu đúng bản chất của đối chất cũng như vị trí, tác dụng của nó giúp cho Thanh tra viên sử dụng đối chất một cách đúng lúc và đạt hiệu quả cao, loại trừ mặt hạn chế và những điểm yếu của hoạt động này.

 Đối chất phải được tổ chức chặt chẽ, chủ động và khoa học. Tiến hành đối chất không đúng phương pháp chẳng những không đưa lại tác dụng thiết thực mà còn làm cho những người tham gia đối chất dễ dàng lợi dụng những điểm yếu của đối chất để hợp thức hoá việc khai man hay nắm bắt được mức độ hiểu biết của cơ quan thanh tra, chuẩn bị được những thủ đoạn đối phó, gây khó khăn cho quá trình thanh tra tiếp tục.

2. Căn cứ và những vấn đề có tính nguyên tắc trong đối chất

2.1. Căn cứ để tổ chức thực hiện đối chất

Đối chất là hình thức hỏi đặc biệt. Việc hỏi từng người một vốn đã khó khăn, phức tạp thì đối chất càng khó khăn phức tạp hơn do phải hỏi đồng thời hai người. Bởi vậy có tổ chức thực hiện đối chất hay không phải dựa trên các căn cứ sau:

a. Mâu thuẫn tồn tại trong lời khai giữa các đối tượng thuộc vấn đề có ý nghĩa quan trọng với vụ việc.

Tuy nhiên, không phải căn cứ có mâu thuẫn trong lời khai giữa các đối tượng đều đưa ra để đối chất, mà trong quá trình khai báo do nhiều nguyên nhân, ĐTTT, đối tượng liên quan, người làm chứng có thể có lời khai mâu thuẫn với nhau. Những mâu thuẫn này thuộc rất nhiều vấn đề của vụ việc, trong đó có vấn đề tuy tồn tại mâu thuẫn giữa các lời khai song không gạt bỏ mâu thuẫn đó thì vụ việc vẫn được kết luận, xử lý đúng mức, quá trình thanh tra vẫn tiến triển bình thường. Những vấn đề thuộc loại này được coi là vấn đề nhỏ của vụ việc, không cần phải làm rõ.

Bên cạnh đó có những mâu  thuẫn thuộc vần đề rất quan trọng của vụ việc mà không thể không được làm rõ. Sự tồn tại những mâu thuẫn đó sẽ là trở ngại cho quá trình thanh tra, dẫn đến kết luận, xử lý vụ việc không khách quan, không triệt để.

Với các vụ việc khác nhau và ngay trong cùng một vụ việc thì nội dung, tính chất các mâu thuẫn được làm rõ không giống nhau. Thanh tra viên cần xác định mâu thuẫn đưa ra đối chất để làm rõ có ý nghĩa quan trọng như thế nào đối với quá trình thanh tra và xử lý vụ việc. Thông thường những mâu thuẫn này thuộc các vấn đề cần chứng minh của vụ việc  như: Xác định các hành vi sai phạm xảy ra hay không, trách nhiệm  của ĐTTT; những tình  tiết tăng nặng, giảm nhẹ, những dấu hiệu chứng tỏ vai trò, vị trí của mỗi người trong vụ việc; những dấu hiệu cố ý hoặc vô ý sai phạm cụ thể và những vấn đề khác cần thiết cho việc giải quyết  đúng đắn vụ việc.

Để xác định đúng đắn mâu thuẫn cần đưa ra trong đối chất phải dựa vào các lời khai phản ánh nội dung, mức độ cụ thể vấn đề còn mâu thuẫn và  vị trí ý nghĩa của vấn đề mâu thuẫn đó đối với quá trình thanh tra, xử lý vụ việc.

b. Đối chất khi không còn phương pháp xác minh nào khác để giải quyết mâu thuẫn, làm rõ sự thật hoặc khi nó là hoạt động thanh tra tối ưu nhất.

Đối chất thực sự phù hợp khi nó là hoạt động duy nhất để làm rõ mâu thuẫn trong lời khai giữa các đối tượng, ngoài đối chất không còn cách nào khác. Đây là tình trạng mà sự kiện thực tế được phản ánh trong lời khai còn mâu thuẫn, chỉ do hai người đã làm hoặc đã biết, không còn cơ sở, căn cứ để xác minh làm rõ mâu thuẫn. Khi đó đối chất được đặt ra như một tất yếu nếu yêu cầu thanh tra, xử lý vụ việc phải làm rõ về mâu thuẫn đó.

Trường hợp sau khi đã sử dụng các biện pháp thanh tra, xác minh khác, song sự kiện thực tế chưa được sáng tỏ, mâu thuẫn vẫn không được làm rõ hoặc mới chỉ được làm rõ một phần trong khi yêu cầu thanh tra, xử lý vẫn đòi hỏi phải tiếp tục làm rõ. Khi đó đối chất cũng cần phải được tiến hành.

Trong trường hợp đối chất và các biện pháp xác minh khác cũng có thể làm rõ mâu thuẫn, phải xem xét tính hiệu quả của từng biện pháp cũng như các yêu cầu chính trị, nghiệp vụ. Chỉ đưa ra đối chất khi nó là biện pháp tối ưu. Ngay khi Thanh tra viên đã có căn cứ khẳng định lời khai đúng, lời khai sai thì việc tính toán sử dụng đối chất hay các biện pháp khác cũng phải dựa vào tính tối ưu của mỗi biện pháp. Không nên đối chất để làm rõ mâu thuẫn khi còn biện pháp khác đạt kết quả chắc chắn hơn, chính xác hơn, nhanh chóng hơn, ít tốn kém hơn, có lợi hơn về chính trị, nghiệp vụ.

Những căn cứ trên đây có mối hệ mật thiết với nhau, việc xem xét có cần và có thể tổ chức một cuộc đối chất hay không trước hết phải dựa vào những căn cứ đó. Mặt khác do đặc trưng của đối chất nên muốn tiến hành đối chất còn phải tính đến khả năng tổ chức đối chất của cơ quan thanh tra, tính đến những điều kiện về Thanh tra viên sẽ chủ trì cuộc đối chất.

2.2. Những vấn đề có tính nguyên tắc trong đối chất

a. Cấm dùng đối chất thay thế biện pháp nghiệp vụ thanh tra khác

Đối chất có tác dụng làm rõ về mâu thuẫn tồn tại trong lời khai giữa các đối tượng nhằm đạt tới sự khách quan, song do tính chất phức tạp, khó khăn của nó, đối chất cũng dễ phạm phải sai lầm nếu Thanh tra viên không thận trọng, khách quan mà lạm dụng đối chất, sử dụng đối chất một cách tuỳ tiện, bừa ẩu, thực chất là vận dụng không đúng không đầy đủ căn cứ để tiến hành đối chất.

Khi phát hiện trong lời khai giữa các đối tượng nảy sinh những mâu thuẫn Thanh tra viên cần xác định biện pháp để làm rõ mâu thuẫn đó. Trên cơ sở tính toán lợi hại mà lựa chọn biện pháp phù hợp nhất. Thông thường đối chất được sử dụng để làm rõ, gạt bỏ mâu thuẫn sau khi đã tận dụng hết khả năng tối đa của các biện pháp khác. Không vội sử dụng ngay đối chất khi còn có biện pháp khác có lợi hơn.

Chỉ nên đối chất sau khi đã tiến hành những biện pháp trước đó mà mâu thuẫn vẫn còn tồn tại hoặc chưa được làm rõ. Nói cách khác, sẽ phạm sai lầm khi lấy đối chất thay thế các biện pháp khác trong điều kiện lẽ ra phải sử dụng các biện pháp đó.

b. Cấm dùng đối chất để bức, mớm, dụ hỏi nhằm thống nhất giả tạo lời khai theo ý muốn chủ quan của Thanh tra viên.

Đối chất có nhược điểm là dễ bộc lộ sơ hở để các đối tượng thông đồng, đối phó cơ quan thanh tra và Thanh tra viên dễ phạm sai lầm, bức, mớm, dụ hỏi.

Khi Thanh tra viên lợi dụng đối chất để bức, mớm, dụ hỏi thì kết quả cũng gây nên khó khăn phức tạp không lường được. Không được đối chất biến tướng như: Hỏi nhiều người cùng một lúc nhằm tạo sự áp đảo tâm lý với một cá nhân, sau đó tách riêng biên bản thành các cuộc đối chất hai người, dùng người có uy tín đặc biệt để bức hỏi, dùng người có lời khai phù hợp với suy nghĩ chủ quan của Thanh tra viên để mớm cho những người khác khai theo, mặc dù những lời khai này chưa có căn cứ xác định tính xác thực, dùng người này để dụ dỗ người khác khai theo...

c. Nghiêm chỉnh tuân thủ các quy định của pháp luật khi tiến hành đối chất.

Khi tiến hành đối chất phải thực hiện nghiêm ngặt những quy định của pháp luật. Việc thực hiện đúng những quy định của pháp luật trong đối chất, không chỉ là nguyên tắc mà còn là phương pháp ngoại trừ  những điểm yếu của đối chất, do vậy không thể xem nhẹ hay đơn giản hoá những quy định của pháp luật. Thực hiện đúng pháp luật sẽ  đảm bảo cho đối chất được khách quan và cũng là thể hiện tính thận trọng, khách quan trong thanh tra .

3. Kỹ thuật đối chất

Muốn thực hiện đối chất, Thanh tra viên phải thực hiện theo trình tự sau đây:

3.1. Chuẩn bị đối chất

Do tính phức tạp của đối chất cho nên giai đoạn chuẩn bị có tầm quan trọng đặc biệt. Chuẩn bị tốt tạo điều kiện cho cuộc đối chất tránh được sai sót và đạt hiểu quả cao.

Việc chuẩn bị một cuộc đối chất thường có các bước sau đây:

a. Nghiên cứu hồ sơ và tình hình có liên quan đến đối chất.

- Mục đích việc nghiên cứu hồ sơ và tình hình có liên quan đến đối chất là:

+ Giúp Thanh tra viên nắm vững tình tiết nội dung vụ việc, nhất là những vấn đề liên quan đến mâu thuẫn và quá trình đối chất.

+ Nắm bắt những đặc điểm tâm lý tính cách của từng người đưa ra đối chất và có quan hệ vốn có giữa họ. Từ đó giúp Thanh tra viên làm chủ quá trình đối chất, động viên được tính tích cực của mỗi thành viên tham gia đối chất cũng như lường trước, ngăn chặn kịp thời những biểu hiện xấu có thể xảy ra trong đối chất.

+ Tìm hiểu nội dung lời khai có mâu thuẫn được phản ánh trong hồ sơ một cách chi tiết cụ thể làm cơ sở xác định kỹ thuật hỏi trong đối chất.

+ Thu thập những tài liệu, căn cứ để chuẩn bị kế hoạch và chuẩn bị  tâm lý cho những người sẽ đưa ra đối chất.

Nghiên cứu hồ sơ và tình hình có liên quan cần nắm vững những nội dung cụ thể sau đây:

+ Khi nghiên cứu hồ sơ vụ việc cần tập trung xem xét những lời khai chứa đựng mâu thuẫn thông qua các biên bản chất vấn ĐTTT, lấy lời khai người làm chứng. Quá trình nghiên cứu phải đối chiếu, so sánh để phát hiện những tài liệu, chứng cứ liên quan đến mâu thuẫn và xác định xem mâu thuẫn trong lời khai có thực chất không.

+ Bước đầu phân tích, nhận định nguyên nhân nảy sinh mâu thuẫn trong lời khai giữa những người sẽ đưa ra đối chất.

+ Xem xét có thể áp dụng các biện pháp khác để làm rõ mâu thuẫn  không và phân tích những thuận lợi khó khăn khi sử dụng những biện pháp đó.

+ Nghiên cứu những tài liệu về nhân thân đối tượng, đặc điểm tâm lý, cá tính, thái độ từng người... nắm được quan hệ tâm lý, xã hội của những người sẽ đưa ra đối chất.

+ Xem xét có áp dụng các biện pháp khác để làm rõ mâu thuẫn  không và phân tích những thuận lợi khó khăn khi sử dụng những biện pháp đó.

+ Nghiên cứu những tài liệu về nhân thân đối tượng, đặc điểm tâm lý, cá tính, thái độ từng người...nắm được quan hệ tâm lý, xã hội của những người sẽ đưa ra đối chất.

Xem xét vị trí, vai trò của mỗi người khi tham gia đối chất, qua đó đánh giá khả năng lời khai của họ.

Nghiên cứu những tài liệu phản ánh quan hệ giữa những dự kiến sẽ tham gia đối chất. Họ có quan hệ từ trước hay không? nếu có thì ở mức độ nào? (ác cảm hay thiện cảm), nguyên nhân của quan hệ ấy là gì? Xác định người đối chất đã từng tham gia đối chất lần nào chưa? với ai? có thuộc cùng vụ việc đang thanh tra hay không. Nội dung đối chất về vấn đề gì?.

+ Dự đoán tình huống sẽ xuất hiện trong đối chất làm cơ sở lựa chọn những phương pháp và kỹ thuật tổ chức đối chất. Tìm hiểu và chuẩn bị những điều kiện chủ quan, khách quan để tổ chức đối chất. ở những cuộc đối chất có tính chất căng thẳng, gay gắt, ngoài Thanh tra viên cần thiết phải có của những cán bộ thanh tra khác cùng tham gia nhằm đảm bảo quán xuyến hết mọi diễn biến của đối chất và phát huy cao độ vai trò của Thanh tra viên, đưa đối chất tiến triển theo đúng kế hoạch, đúng pháp luật.

+ Xem xét xem người định đưa ra đối chất có đủ những điều kiện hay không và ở vào thời điểm cuộc đối chất được tiến hành họ có đủ sức khoẻ, sự minh mẫn... để tham gia đối chất hay không.

Trong một số trường hợp, để tăng cường sự tác động đến người đưa ra đối chất, cần thiết phải có những tài liệu chứng cứ chứng minh các vấn đề có liên quan đến mâu thuẫn tồn tại giữa các lời khai và các phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ để sử dụng các kỹ thuật chất vấn trong quá trình đối chất. Với các đối tượng thuộc loại côn đồ, hung hãn, nóng nảy... phải chuẩn bị điều kiện đảm bảo an toàn cho cuộc đối chất.

b. Lấy lời khai trước khi đối chất.

Hoạt động này tuy không phải là yếu  tố bắt buộc của luật Thanh tra  song về mặt nghiệp vụ nó là hoạt động nhất thiết phải có. Chính hoạt động này cũng thể hiện tính kỹ thuật nghiệp vụ của đối chất. Việc lấy lời khai trước khi đối chất phải nhằm đạt được các yêu cầu và hướng tới các nội dung sau:

- Tìm hiểu những căn cứ, lý lẽ mỗi người sẽ đưa ra trong đối chất từ đó xác định những tác động cụ thể, những kỹ thuật hỏi phù hợp với từng người trong đối chất, loại trừ diễn biến xấu như: thông hỏi, cãi vã, đổ trách nhiệm cho nhau...Đồng thời thông qua việc lấy lời khai trước khi đưa ra đối chất ta có thể phát hiện những trường hợp không cần thiết đối chất.

- Yêu cầu người sẽ đưa ra đối chất khai lại về vấn đề mà họ đã khai mâu thuẫn với người khác cùng căn cứ chứng minh cho nội dung lời khai của họ.

Quá trình lấy lời khai này cũng phải đảm bảo thủ tục pháp luật để khi cần thiết có thể sử dụng làm căn cứ đấu tranh với thái độ khai báo ngoan cố của họ.

Với những trường hợp có căn cứ nghi ngờ họ cố tình khai dối phải chú ý giữ bí mật ý đồ của việc lấy lời khai nhằm tạo điều kiện sử dụng các kỹ thuật hỏi khi tiến hành đối chất.

- Qua lấy lời khai Thanh tra viên trực tiếp giao tiếp với người được đưa ra đối chất để tìm hiểu đặc điểm tâm lý, bản lĩnh chú ý của từng người và mối quan hệ giữa những người sẽ đưa ra đối chất. Trên cơ sở có tác động để tạo ra cho họ trạng thái tâm lý tích cực có lợi cho quá trình tham gia đối chất như: Thái độ tự tin, bình tĩnh, tuân thủ những quy định của đối chất, không bị ám thị bởi sự có mặt của người khác, nhất là những người vốn có quan hệ đặc biệt với họ như: đồng nghiệp với đồng nghiệp, người phụ trách với nhân viên...

- Giáo dục, thuyết phục, xác định trách nhiệm cho mỗi người tham gia đối chất ở giai đoạn này là hoạt động cần thiết của Thanh tra viên, làm cho các đối tượng sẽ đưa ra đối chất thấy rõ hơn trách nhiệm của mình, đặc biệt là đối với những người làm chứng, người bị hại. Cần chỉ cho họ thấy việc khai đúng sự thật là trách nhiệm mà pháp luật quy định đối với họ.

Chuẩn bị tâm thế cho mỗi người tham gia đối chất. Việc chuẩn bị tâm thế cho mỗi người tham gia đối chất tuỳ thuộc nguyên nhân dẫn đến lời khai mâu thuẫn của từng người.

Nếu lời khai chứa đựng sự mâu thuẫn, không phải do cố ý khai dối thì Thanh tra viên có thể thông báo trước cho người tham gia đối chất về nội dung cuộc đối chất như: Mục đích, thời gian, địa điểm... để họ có thời gian suy nghĩ, hồi tưởng, nhớ lại những việc họ đã làm, đã biết, từ đó khai báo đúng sự thực khi bước vào đối chất. Mọi tác động gây tâm lý căng thẳng, sợ hãi.... cho người đối chất sẽ làm ảnh hưởng xấu đến kết quả đối chất.

- Đối với những người có lời khai mâu thuẫn do sự cố tình khai dối vì thù oán cá nhân, tư lợi, bao che đồng bọn, che giấu hành vi của mình... thì việc chuẩn bị tâm thế ở đây là xác định trách nhiệm của mỗi công dân trước pháp luật về lời khai sai của mình, nhất là với người làm chứng, người bị hại. Tuyệt đối tránh lộ ý đồ và lộ thông tin có liên quan đến cuộc đối chất. Trong trường hợp này yêu cầu cần đạt được là: Làm tê liệt ý thức cảnh giác và làm tăng tính bất ngờ, tạo tác động mạnh về tâm lý đối với những người khai dối.

Trường hợp chưa xác định được ai khai đúng hoặc khai sai, thì việc chuẩn bị tâm thế tốt nhất là chỉ đạo cho họ trạng thái hưng phấn tâm lý chung, sẵn sàng tích cực tham gia công tác đối chất, như giáo dục trách nhiệm chung của công dân trước pháp luật, trách nhiệm của ĐTTT với lời khai của họ.

Việc chuẩn bị tâm thế cho người tham gia đối chất còn phụ thuộc vào phẩm chất ý chí của từng người. Thông thường những người có hệ thống thần kinh yếu, hay lo sợ... cần được động viên, gợi lại những sự việc đã xảy ra theo trình tự thời gian, có tài liệu chứng cứ và củng cố tinh thần cho họ, sao cho họ không còn sợ hãi, e ngại đối với người sẽ cùng tham gia đối chất. Có thể bồi dưỡng cho họ phương pháp, cách thức đấu tranh để họ tự có thể trình bày những sự việc và bằng hành vi của mình tác động tích cực vào người có lời khai dối.

Trong một số trường hợp có thể chuẩn bị tâm thế cho cuộc đối chất bằng việc sử dụng kết quả các cuộc hỏi hay đối chất trước đó để thiết lập tâm lý phải khai trung thực trong những người sẽ được đưa ra đối chất.

Việc lấy lời khai trước khi đối chất được coi là hoàn thành khi Thanh tra viên tạo lập được những yếu tố tâm lý có lợi cho cuộc đối chất và thu được những thông tin giúp cho việc hình dung tiến trình đối chất, dự kiến được hành vi sẽ phát sinh ở mỗi người, từ đó lập kế hoạch đối chất một cách hợp lý.

c. Lập kế hoạch đối chất.

Kế hoạch đối chất phải được lập tỉ mỉ cụ thể bởi nó là phương hướng giúp Thanh tra viên chủ động khi tiến hành đối chất.

Kế hoạch đối chất được lập sau khi Thanh tra viên đã nghiên cứu hồ sơ và tình hình có liên quan đồng thời xác định đối tượng cụ thể sẽ đưa ra đối chất

Nội dung kế hoạch đối chất gồm:

- Xác định mục đích, yêu cầu của cuộc đối chất. Cần xác định mục đích cụ thể của từng cuộc đối chất là gì? (như làm rõ mâu thuẫn giữa các lời khai, đấu tranh vạch mặt kể khai dối, hay tạo điều kiện gợi nhớ để họ khai tốt hơn...)

- Xác định nội dung sự việc đưa ra đối chất. Cần xác định mục đích cụ thể  của từng cuộc đối chất là gì? ( ngoài mục đích làm rõ mâu thuẫn giữa các lời khai, còn mục đích nào khác? làm rõ mâu thuẫn cụ thể ở mức độ nào, các đích cụ thể khác là gì? đấu tranh vạch mặt kẻ khai dối, hay tạo điều kiện gợi nhớ để họ khai tốt hơn...)

- Xác định nội dung sự việc đưa ra đối chất: Cần xác định cụ thể và sắp xếp những vấn đề đưa ra đối chất theo một trình tự nhất định. Việc xác định trình tự các vấn đề đưa ra đối chất mang tính chất kỹ thuật trên cơ sở lôgíc từng sự việc và tâm lý từng người. Với từng vấn đề cần ghi trích yếu những lời khai trước đây của từng người về sự việc đó (ghi rõ ở tập hồ sơ nào, trang nào, có tài liệu chứng cớ gì kèm theo...)

- Dự kiến những câu hỏi và trả lời. Để giải đáp các vấn đề trên, có thể nêu các câu hỏi phù hợp với từng vấn đề cho từng người. Câu hỏi nêu ra phải được tính toán chặt chẽ có tác dụng tập trung làm rõ mâu thuẫn và thu được câu hỏi trả lời  xác thực. Cần dự kiến câu trả lời của người đối chất và những câu hỏi kế tiếp các câu trả lời...

- Xác định thời gian, địa điểm đối chất: Tuỳ theo mục đích, yêu cầu và đặc điểm tâm lý đối tượng mà lựa chọn thời gian thời điểm đối chất sao cho nó có lợi nhất. Thời gian đối chất cần xác định gắn với trình tự và kỹ thuật đối chất.

Chuẩn bị phương tiện, điều kiện cho cuộc đối chất: bào gồm các tài liệu, bằng ghi âm về lời khai trước đây của những người được đưa ra đối chất, các tài liệu chứng cứ sử dụng trong cuộc đối chất; các văn bản, phương tiện phản ánh diễn biến cuộc đối chất...

 Bố trí cán bộ chủ trì và các thành viên tham gia đối chất. Cán bộ chủ trị cuộc đối chất phải là Thanh tra viên có đủ năng lực và kinh nghiệm tổ chức cuộc đối chất. Tuỳ từng cuộc đối chất có thể chỉ định thêm những cán bộ khác cùng tham gia làm các nhiệm vụ thư ký, phiên dịch.... cần ghi rõ họ tên, chức vụ, vị trí của từng người tham gia đối chất vào bản kế hoạch.

3.2. Thực hiện đối chất

a. Hoạt động mở đầu

Mọi hoạt động kể từ khi mở đầu cuộc đối chất đều có ý nghĩa kỹ thuật nhằm tác động đến từng người tham gia đối chất... Những hoạt động này đã được xác định trong kế hoạch đối chất; tuy nhiên tính kỹ thuật trong đối chất còn thể hiện ở việc Thanh tra viên xử lý kịp thời, phù hợp những tình huống nảy sinh mà kế hoạch đối chất chưa tính đến.

Hoạt động mở đầu được xác định từ khi Thanh tra viên đưa từng người hoặc cả hai người cùng vào phòng đối chất dựa trên cơ sở kỹ thuật đối chất phải được xác định. Thời điểm đưa người đối chất vào phòng rất quan trọng, sao cho họ không có điều kiện tiếp xúc nhau trước để có thể thống nhất lời khai hoặc có những hành vi bất lợi cho cuộc đối chất, nhất là với người làm chứng, người bị hại vì những người này thường đang sống tự do không bị tạm giữ hay quản lý của cơ quan thanh tra, họ có điều kiện gặp gỡ, tiếp xúc nhau.

Thông thường đưa trước vào phòng đối chất những người có tâm lý hay lo sợ, phẩm chất ý chí vững vàng, những người đã được thông báo trước về cuộc đối chất nhằm giúp cho họ có tâm lý chủ động vững tin khi tham gia đối chất.

Đưa vào sau những người mà Thanh tra viên cần tạo ở họ yếu tố bất ngờ nhằm tăng cường độ tác động tâm lý đối với họ, làm cho họ mất khả năng chuẩn bị lời khai dối chống lại cuộc đối chất.

Cùng đưa vào phòng đối chất một lúc đối với những người mà Thanh tra viên chưa có căn cứ nhận định về thái độ khai báo của họ. Việc bố trí chỗ ngồi đối chất phải đảm bảo yêu cầu: Thanh tra viên có thể bao quát khống chế được cả hai người đối chất. Bản thân họ khó có thể thông đồng trong lời khai hoặc thực hiện các hành vi gây hại khác. Tốt nhất, nên bố trí để cả hai người ngồi ngang nhau cùng hướng về phía Thanh tra viên.

Sau khi đã ổn định chỗ ngồi cho cả hai người thì Thanh tra viên tuyên bố lý do của cuộc đối chất như để làm rõ mâu thuẫn, để đánh giá thái độ khai báo... Tiếp đó Thanh tra viên xác định trách nhiệm quyền hạn của mỗi thành viên tham gia cuộc đối chất:

Tuỳ theo loại người đưa ra đối chất mà Thanh tra viên xác định quyền hạn và nghĩa vụ đối với họ cho sát hợp và yêu cầu họ chấp hành nghiêm chỉnh những quy định khi đối chất là:

+ Tuân thủ tuyệt đối những yêu cầu mà Thanh tra viên đặt ra, chỉ được nói khi Thanh tra viên cho phép.

+ Khách quan, trung thực, không được che giấu hay gian dối khi tham gia đối chất.

+ Tuyệt đối không được cãi vã, xỉ vả hay đổ vấy trách nhiệm cho nhau.

+ Được phép đưa ra mọi căn cứ lý lẽ chứng minh cho lời khai của mình

+ Được quyền chất vấn nhau khi Thanh tra viên cho phép. Đối với người làm chứng, người bị hại Thanh tra viên phải giải thích cho họ biết trách nhiệm về từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố tình khai báo gian dối.

b. Tiến hành đối chất.

Trong đối chất có thể sử dụng các kỹ thuật hỏi phù hợp với từng người đưa ra đối chất. Những kỹ thuật này được áp dụng trên cơ sở. Vị trí , vai trò của người được đưa ra đối chất, nguyên nhân mâu thuẫn và những đặc điểm tâm lý của người chất. Kỹ thuật hỏi trong đối chất được thể hiện cụ thể chủ yếu qua trình tự và nội dung cần hỏi trong đối chất. Cụ thể là:

- Trình tự hỏi trong đối chất.

+ Trình tự chung:

Thông thường đối chất cần theo trình tự chung là: Hỏi lần lượt từng người và hỏi dứt điểm từng vấn đề sau đó mới hỏi tiếp sang vấn đề khác.

Việc hỏi ai trước, ai sau chủ yếu dựa vào thái độ khai báo trước đây của họ. Kinh nghiệm cho thấy rằng, những người có lời khai thực, có sức thuyết phục nên để họ khai trước nhằm tăng sức thuyết phục của lời khai đối với người kia. Khi hỏi những người đã có lời khai thực Thanh tra viên cần đặt nhiều câu hỏi để họ phải trình bày rõ những vấn đề họ khai và căn cứ chứng minh. Lời khai của người có thái độ khai báo tốt sẽ tác động đến người kia, ngay cả người có thái độ khai chưa tốt cũng không thể cố tình giữ lời khai dối trước sự hiện diện và trước lời khai có căn cứ của người đã cùng trực tiếp tri giác sự kiện với mình.

Trong trường hợp chưa xác định được người nào khai thực người nào khai dối thì việc hỏi ai trước nên bắt đầu từ người mà họ có căn cứ đáng tin cậy hơn.

Những người đã tham dự các cuộc đối chất trước đó được hỏi trước hay sau sẽ phải căn cứ vào thái độ khai của mỗi người khi tham gia các cuộc đối chất trước đó.

Với mỗi người phải yêu cầu họ trả lời vào những vấn đề mâu thuẫn và những căn cứ chứng minh cho vấn đề mà họ đã khai. Chỉ sau khi họ đã khai xong những chi tiết của lời khai Thanh tra viên mới đặt câu hỏi đó cho người thứ hai.

Việc hỏi với người thứ hai dưới dạng yêu cầu họ nêu ý kiến của mình về lời khai của người kia đã khai trước đó. Cứ như vậy hỏi làm rõ từng vấn đề mới chuyển sang hỏi vấn đề khác cho đến khi kết thúc đối chất.

Trường hợp cần thiết Thanh tra viên có thể cho phép hai người hỏi nhau về các vấn đề có liên quan đến mâu thuẫn. Những câu hỏi và trả lời cũng phải ghi vào biên bản.

Với những người được xác định rõ do trí nhớ kém, trình độ nhận thức thấp hoặc những nguyên nhân không cố ý mà có lời khai mâu thuẫn, Thanh tra viên cần sử dụng các phương pháp gợi nhớ tạo điều kiện để họ có thể hình dung lại đầy đủ chính xác sự kiện đã được chứng kiến mà khai cho khách quan. Trường hợp này nên hỏi người có khả năng nhớ đầy đủ, chính xác. Việc xác định người nào có khả năng nhớ tốt hơn phải căn cứ vào mức độ chính xác của những tình tiết trong các lần khai trước cũng như thái độ khai báo hiện tại của mỗi người. Câu hỏi đặt ra cho loại người này thường sắp đặt từ thấp đến cao, từ giản đơn đến phức tạp, có tính chất gợi ý hỏi sâu thêm.

Thanh tra viên phải quán xuyến toàn bộ diễn biến của tiến trình cuộc đối chất, phải nhạy cảm nắm bắt được phản ứng của từng người khi nêu câu hỏi cho họ và khi họ trả lời. Chú ý quan sát phát hiện những dao động tâm lý xuất hiện ở họ để có tác động tâm lý phù hợp có lợi nhất cho cuộc đối chất. Chỉ có như vậy Thanh tra viên mới luôn là người tổ chức chỉ đạo, hướng dẫn tiến trình đối chất đạt đến mục đích đã quy định. Những kỹ thuật được chuẩn bị sẵn trong kế hoạch đối chất đôi khi cũng cần được thay đổi điều chỉnh tuỳ theo diễn biến của cuộc đối chất. Sự điều chỉnh này mang ý nghĩa kỹ thuật nhằm đưa đối chất đến kết quả cao nhất.

Những nội dung cần thiết phải được hỏi trong đối chất là:

Hỏi về mối quan hệ sẵn có trong đời sống xã hội của hai người. Nếu họ sẵn quan hệ đặc biệt phải hỏi rõ nguyên nhân hình thành quan hệ cũng như mức độ hiện tại của quan hệ đó. Vấn đề này thường được hỏi thẳng.

Để xác định được giữa họ có quan hệ thù ghét hay thiện cảm với nhau hay không ? tính chất mức độ quan hệ này ảnh hưởng không nhỏ đến tính khách quan trong lời khai của mỗi người đưa ra khi đối chất.

Hỏi về quan hệ của hai người với sự việc mà họ khai có mâu thuẫn. Cần xác định được quan hệ cụ thể như thế nào? Trực tiếp hay gián tiếp? Trong điều kiện hoàn cảnh nào mà mỗi người biết về sự kiện đó. Yêu cầu này có tính bắt buộc của pháp luật (kể cả trường hợp Thanh tra viên đã biết được mối quan hệ của họ). Hoạt động này trước tiên nhằm đề phòng ngăn chặn khiếu nại của những người đối chất với nhau, sau nữa nhằm tìm hiểu nội dung sự kiện có liên quan đến mâu thuẫn.

Hỏi vào nội dung vấn đề còn mâu thuẫn phải hỏi rõ những tình tiết cần làm sáng tỏ, những căn cứ chứng minh cho từng sự kiện sự hiểu sâu, thấu đáo của Thanh tra viên về những tình tiết trong vụ việc, nhất là những vấn đề còn mâu thuẫn thực sự đóng vai trò tích cực giúp Thanh tra viên đưa ra những câu hỏi thích ứng với từng vấn đề nhằm làm rõ mâu thuẫn trong cuộc đối chất. Thanh tra viên đưa ra có thể sử dụng các dạng câu hỏi khác nhau tuỳ theo thái độ khai báo của từng người về nội dung mâu thuẫn.

Quá trình đối chất có thể phát hiện thấy những nội dung sai lệch từ khi lời khai của một hoặc hai người đưa ra đối chất. Khi Thanh tra viên có sử dụng tài liệu, chứng cứ đã có cùng lời khai của người nhỏ đến tính khách quan trong lời khai của mỗi người đưa ra khi đối chất.

Hỏi về quan hệ của hai người với sự việc mà họ khai có mâu thuẫn. Cần xác định được quan hệ cụ thể như thế nào? Trực tiếp hay gián tiếp? Trong điều kiện hoàn cảnh nào mà mỗi người biết về sự kiện đó. Yêu cầu này có tính bắt buộc của pháp luật (kể cả trường hợp Thanh tra viên đã biết được mối quan hệ của họ). Hoạt động này trước tiên nhằm đề phòng ngăn chặn khiếu nại của những người đối chất với nhau, sau nữa nhằm tìm hiểu nội dung sự kiện có liên quan đến mâu thuẫn.

Quá trình đối chất có thể phát hiện thấy những nội dung sai lệch từ lời khai của từ một hoặc hai người đa ra đối chất. Khi đó Thanh tra viên có thể sử dụng tài, chứng cứ đã có cùng lời khai của người đã khai thực để đấu tranh với người khai sai. Cách đặt câu hỏi trong trường hợp này là sao cho khi trả lời, người khai thật sẽ vạch mặt được kẻ khai rối bằng chính câu trả lời của mình. Nếu thấy phát hiện thấy sự phi lý trong chính những lời khai của cả hai người (có thể cả hai người cùng sai), Thanh tra viên phải hết sức thận trọng, chỉ cần chỉ rõ sự phi lý bằng cách đặt tiếp hàng loạt các câu hỏi chỉ khác có liên quan đến sự phi lý và mâu thuẫn cần được làm rõ, buộc cả hai đối tượng phải lý giải. Bằng cách đó có thể đạt được sự thật khách quan thông qua cuộc đối chất.

Trong trường hợp có sự cải chính lời khai và đưa ra lời khai có nội dung mới, Thanh tra viên cần phải hỏi rõ những chi tiết của nội dung mới, xác định rõ mức độ nội dung thay đổi lời khai. Cần chú ý không nên hỏi ngay nguyên nhân sự thay đổi lời khai, làm như vậy họ có thể trả lời không đúng vì sự hiện diện của người kia là một nhân tố ảnh hưởng mạnh  mẽ cản trở họ khai ra điều đó. Tốt nhất  vấn đề này được hỏi riêng ngay sau khi kết thúc cuộc đối chất.

Khi cần thiết và ở thời điểm thích hợp, Thanh tra viên có thể cho những người đối chất hỏi lẫn nhau. Có thể cho phép hỏi nhau về các vấn đề liên quan  đến mâu thuẫn và những vấn đề mới nảy sinh. Thanh tra viên có thể điều chỉnh hay loại bỏ những câu hỏi khi xét thấy không cần thiết hoặc đặt thêm câu hỏi phụ nhằm chỉ đạo đối chất theo đúng kế hoạch. Quá trình này Thanh tra viên phải theo dõi giám sát chặt chẽ mọi hành vi của từng người tham gia đối chất. Thanh tra viên phải chú ý phát hiện dự đoán của những hành vi gây hại có thể sẽ phát sinh để kịp thời ngăn ngừa không cho nó sẩy ra hoặc quyết định dừng ngay đối chất khi thấy có biểu hiện thông đồng hay có những hành vi gây hại khác.

Khi các đối tượng có lời khai mâu thuẫn với thực tế sự kiện mà thái độ khai thiếu thành khẩn, thanh tra cần phải sử dụng chứng cứ để đấu tranh.

Toàn bộ diễn biến của quá trình đối chất phải được ghi vào biên bản theo đúng thủ tục thanh tra.

c. Biên bản đối chất.

Biên bản đối chất cúng phải đảm bảo các yêu cầu nghiệp vụ, những nội dung quan trọng phải được củng cố chặt chẽ. Nghĩa là sau những nội dung đó yêu cầu người khai ký tên xác nhận vào văn bản. Những trường hợp quan trọng phải  ghi âm.

Những vấn đề chưa rõ phải hỏi ký mới ghi vào biên bản

Theo dõi thái độ khai báo của từng người để tiến hành ghi biên bản sao cho hoạt động này cũng trở thành tác động tâm lý với những người được đưa ra đối chất.

Biên bản lập xong phải đọc cho người tham gia đối chất nghe và phải có đủ chữ ký của những người đó.

Tóm lại, nội dung, hình thức biên bản đối chất đều đảm bảo đầy đủ các yêu cầu chính trị, pháp luật, nghiệp vụ.

3.3. Kết thúc đối chất

a. Hỏi riêng từng người đã được đưa ra đối chất.

Sau mỗi buổi đối chất, Thanh tra viên phải hỏi lại những người đã được đưa ra đối chất nhằm tìm hiểu những tác động tâm lý dẫn đến lời khai thiếu trung thực tại cuộc đối chất,  qua đó thu thập thêm căn cứ đấu tranh khi cần thiết. Trong một số trường hợp cụ thể hỏi riêng từng người sau khi đối chất còn nhằm đấu tranh với thái độ không đúng của người đối chất đã bộc lộ khi tham gia  mà Thanh tra viên nắm bắt được. Ngoài ra, Thanh tra viên có thể thu thập thêm căn cứ để tiến hành các biện pháp xác minh những vấn đề mới được nảy sinh trong đối chất.

Nội dung hỏi cần đạt được là:

- Yêu cầu mỗi người trình bày rõ nguyên nhân họ giữ, nguyên hay thay đổi lời khai trong đối chất.

- Thái độ trách nhiệm của họ về lời khai của mình.

- Nêu rõ thái độ khai dối hoặc thái độ xấu trong đối chất của những người vi phạm quy định đối chất

Có thể sử dụng câu hỏi thẳng để làm rõ các vấn đề trên khi hỏi lại từng người phải lập biên bản riêng và tiến hành hỏi riêng rẽ từng người một.

b. Thẩm tra xác minh lời khai thu được qua đối chất

Đối chất thường đưa lại những kết quả khác nhau. Để đảm bảo nguyên tắc khách quan thận trọng, đảm bảo yêu cầu pháp luật Thanh tra viên phải thẩm tra xác minh lời khai thu được qua đối chất.

Để tham gia xác minh nhanh chóng, kịp thời Thanh tra viên phải:

- Ngay trong quá trình đối chất và lấy lại lời khai sau cuộc đối chất, Thanh tra viên phải hỏi kỹ những chi tiết làm cơ sở cho việc thẩm tra, xác minh. Dựa vào những lời khai đó mà thu thập tài liệu chứng cứ mới theo hướng mà lời khai đã phản ảnh.

- Đối chất nhằm xác minh sự chân thực của các lời khai, tiếp tục phát hiện những mâu thuẫn mới, những bất hợp lý nảy sinh để xác minh.

- Phối hợp lực lượng, sử dụng các biện pháp nghiệp vụ khác để xác minh như: thực nghiệm thanh tra, giám định kỹ thuật, chất vấn ĐTTT, lấy lời khai nhân chứng, phân tích hồ sơ ...

c. Đánh giá, sử dụng kết quả đối chất.

Thanh tra viên cần căn cứ vào kết quả cụ thể của từng cuộc đối chất mà đánh giá, sử dụng cho phù hợp.

Trong tất cả các trường hợp, sau mỗi cuộc đối chất những văn bản pháp lý phản ánh quá trình đối chất được lưu giữ trong hồ sơ thanh tra vụ việc. Như vậy, ngay cả trong trường hợp người đối chất vẫn giữ nguyên lời khai, khi Thanh tra viên không có có được những căn cứ để kết luận về mâu thuẫn thì hồ sơ thanh tra vẫn được "khép kín". Điều này chứng tỏ sự kiên quyết, triệt để trong thanh tra và đảm bảo sự chặt chẽ về thủ tục pháp lý trong quá trình thanh tra, xác minh đơn thư khiếu nại, tố cáo.

Trong trường hợp một hoặc cả hai bên đổi lời khai, đưa ra lời khai mới, mở ra hướng xác minh mới, giúp cho Thanh tra viên hoạch định phương pháp xác minh phù hợp. Thanh tra viên phải xem xét nội dung lời khai mới để xử lý cho phù hợp phục vụ cho việc phối hợp thanh tra, thu thêm tài liệu, chứng cứ mới hay trao đổi thông tin với các đơn vị liên quan.

Trong trường hợp những người đối chất vẫn giữ nguyên lời khai, mâu thuẫn không được loại bỏ thì thông qua diễn biến toàn bộ cuộc đối chất để tìm hiểu những căn cứ mà mỗi bên đưa ra nhằm bảo vệ lời khai của mình, qua biểu hiện tâm lý mỗi người bộc lộ trong đối chất để nhận định thái độ của từng người,

Chỉ sử dụng kết quả đối chất là chứng cứ của vụ việc khi các lời khai của mỗi người đưa ra đối chất được các tài liệu chứng cứ khác chứng minh.

Có thể sử dụng kết quả đối chất theo các hướng như:

- Củng cố tài liệu, chứng cứ của vụ việc.

- Đánh giá thái độ khai báo và sự đúng sai trong lời khai của từng người đã đưa ra đối chất.

- Hoàn thành thủ tục hồ sơ vụ việc, kết luận đúng, sai rõ ràng, xử lý thấu tình đạt lý.

- Phát hiện mở hướng xác minh thu thập tài liệu chứng cứ cho vụ việc. 

          Trên đây là phương pháp thu thập chứng cứ thanh tra bằng kỹ thuật đối chất nhằm giúp cho cán bộ thanh tra nghiên cứu, tham khảo và áp dụng trong thực tiễn để đạt hiệu quả tốt hơn trong công tác thanh tra. Nếu đồng chí nào muốn hỏi thêm chi tiết hoặc góp ý xây dựng nghiệp vụ cho ngành, xin liên hệ địa chỉ của tác giả: Hoàng Quốc Hùng – Thanh tra Bộ Tư pháp, số máy: 04.8231127 hoặc 0913001513. Chúng tôi xin ghi nhận, lắng nghe, tham khảo, tổng hợp để bổ sung, cập nhật, chỉnh sửa tài liệu này để ngày một nâng cao chất lượng tài liệu nghiệp vụ cho ngành Thanh tra./.