Chính phủ cho ý kiến về các Đề nghị xây dựng luật trình Chính phủ

14/10/2022
Tại Nghị quyết 126/NQ-CP ngày 27/9/2022 về Phiên họp Chính phủ chuyên đề tháng 9 năm 2022, Chính phủ đã quyết nghị nhiều vấn đề quan trọng về đề nghị xây dựng luật trình Chính phủ.
1. Về Đề nghị xây dựng Luật Công chứng (sửa đổi)
Chính phủ cơ bản thống nhất về sự cần thiết, mục tiêu xây dựng Luật, nội dung cơ bản của các chính sách nhằm tiếp tục đóng góp tích cực vào việc thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng; bảo đảm tính an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, giá trị sử dụng bản dịch, góp phần tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi, tin cậy cho các hoạt động đầu tư, kinh doanh, thương mại và góp phần quan trọng vào tiến trình cải cách hành chính, cải cách tư pháp.
Đề nghị xây dựng Luật cần quán triệt quan điểm, yêu cầu sau:
Thứ nhất, thể chế hóa đầy đủ các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và chính sách, pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực tư pháp.
Thứ hai, bảo đảm phân cấp, phân quyền, đẩy mạnh xã hội hóa, giảm tải cho bộ máy nhà nước, tạo cơ chế hoạt động minh bạch; đơn giản thủ tục, tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch trong xã hội, ưu tiên người yếu thế, nơi có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; đề cao trách nhiệm và vai trò đóng góp của công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng đối với xã hội.
Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan có liên quan tiếp thu tối đa ý kiến của các Thành viên Chính phủ, các bộ, cơ quan liên quan, tập trung hoàn thiện Đề nghị xây dựng Luật với các nội dung sau:
- Chính sách 1: Xác định đúng phạm vi hoạt động công chứng, phạm vi thẩm quyền của công chứng viên và các nguyên tắc cơ bản nhằm phát triển hoạt động công chứng của nước ta theo đúng mô hình công chứng nội dung, góp phần thúc đẩy quá trình xã hội hóa hoạt động công chứng, chứng thực: Bộ Tư pháp cần phối hợp chặt chẽ với các Bộ, cơ quan liên quan để rà soát kỹ các quy định pháp luật của các lĩnh vực liên quan, nghiên cứu đầy đủ, khoa học đối với các loại giao dịch liên quan đến đất đai, bất động sản... để có sự thống nhất sửa đổi, bổ sung tại Luật Công chứng hoặc luật chuyên ngành.
- Chính sách 2: Phát triển đội ngũ công chứng viên theo hướng tập trung nâng cao chất lượng để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, đảm bảo số lượng phù hợp với nhu cầu công chứng và phát triển ổn định, bền vững: cần quy định hoạt động hành nghề công chứng viên đúng với tính chất của nghề công chứng, phù hợp với thực tiễn trong nước cũng như quốc tế, Xây dựng các quy định tập trung vào nâng cao vai trò, trách nhiệm, chất lượng cũng như cơ chế kiểm soát công chứng viên để họ có điều kiện tốt nhất thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, đóng góp hiệu quả cho xã hội, hạn chế những sai sót, tiêu cực có thể xảy ra trong quá trình hành nghề; nghiên cứu quy định đa dạng hơn các hình thức hành nghề để công chứng viên có điều kiện thuận lợi hành nghề, có cơ chế phát huy và chịu trách nhiệm cá nhân trước khách hàng và cơ quan quản lý nhà nước; nghiên cứu quy định điều kiện, tiêu chí của công chứng viên một cách khoa học, phù hợp như không nên giới hạn độ tuổi hành nghề (70 tuổi) mà theo hướng đủ điều kiện sức khỏe...
- Chính sách 3 (Phát triển các tổ chức hành nghề công chứng ổn định, bền vững, phù hợp với nhu cầu công chứng của xã hội, kiểm soát chặt chẽ việc hợp danh hoặc thay đổi thành viên hợp danh của văn phòng công chứng) và Chính sách 5 (Tăng cường các giải pháp, công cụ quản lý phù hợp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về công chứng, phát huy trách nhiệm tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên phù hợp với quy định của pháp luật và thông lệ quốc tế): cần đánh giá đúng tính chất, vai trò của tổ chức hành nghề công chứng để xây dựng quy định phù hợp với thực tiễn Việt Nam cũng như quốc tế. Đối với tổ chức hội nghề nghiệp trong lĩnh vực công chứng cần bổ sung quy định đầy đủ và phù hợp để phát huy vai trò xã hội, cùng với cơ quan quản lý nhà nước để thực hiện kiểm soát, hỗ trợ công chứng viên hiệu quả; việc thành lập các tổ chức hành nghề công chứng không nên theo quy hoạch mà tôn trọng quy luật cung cầu nhưng cần có biện pháp kiểm soát, điều tiết hoạt động công chứng, nhất là trong bối cảnh xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động công chứng; cần quy định rõ các nội dung quản lý nhà nước để một mặt bảo đảm hiệu quả, tạo điều kiện cho việc thành lập, hoạt động các văn phòng công chứng nhưng mặt khác phải kiểm soát tốt, tránh được những tiêu cực, bất cập trong việc thành lập, chuyển nhượng, hợp danh hoặc thay đổi thành viên hợp danh của văn phòng công chứng.
- Chính sách 4: Xây dựng quy trình công chứng linh hoạt, tạo điều kiện phát huy tối đa khả năng và trách nhiệm của công chứng viên nhưng vẫn bảo đảm sự chặt chẽ, đúng yêu cầu của mô hình công chứng nội dung, đồng thời tạo lập được cơ sở pháp lý cần thiết để triển khai việc chuyển đổi số trong hoạt động công chứng theo lộ trình phù hợp: Xây dựng quy trình công chứng khoa học, gần với trách nhiệm của công chứng viên, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp, giảm thủ tục, giảm chi phí nhưng cần phù hợp và giúp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Đặc biệt đối với các mức phí, lệ phí cần được tính toán có cơ chế đa dạng để người dân có thể tiếp cận và tạo nguồn thu hợp lý cho ngân sách, về nội dung chuyển đổi số cần xử lý đồng bộ theo các quy định của Luật Giao dịch điện tử. Luật Công chứng lựa chọn các thành tố số của hoạt động giao dịch điện từ để áp dụng quy định chi tiết hoạt động công chứng điện tử và các nội dung đặc thù, riêng biệt (nếu có), đảm bảo sau khi Luật ban hành, hoạt động công chứng điện tử có thể thực hiện được ngay. Việc xây dựng cơ sở dữ liệu là cần thiết, Bộ Tư pháp cần phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông cùng các cơ quan liên quan đề xuất xây dựng Đề án phù hợp với tổng thể với các cơ sở dữ liệu liên quan khác của ngành Tư pháp và có thể kết nối, chia sẻ dữ liệu quốc gia (trừ liên quan đến nội dung an ninh, quốc phòng), trong đó xác định rõ nguồn lực tài chính đảm bảo chi đầu tư, chi thường xuyên phù hợp với quy định của pháp luật.
b) Giao Phó Thủ tướng Thường trực Phạm Bình Minh chỉ đạo Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tiếp tục rà soát, đánh giá các chính sách, bổ sung hoàn thiện các giải pháp, bảo đảm tính toàn diện, thống nhất, khả thi, đặc biệt là các vấn đề còn ý kiến khác nhau; hoàn thiện hồ sơ Đề nghị xây dựng Luật để đề nghị Quốc hội bổ sung dự án Luật này vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023 theo quy định.
2. Về Đề nghị xây dựng Luật Khoáng sản (sửa đổi)
Chính phủ cơ bản thống nhất về sự cần thiết, mục tiêu xây dựng Luật nhằm xử lý những tồn tại, hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn; tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về địa chất, khoáng sản; góp phần thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường.
a) Đề nghị xây dựng Luật cần quán triệt các quan điểm, yêu cầu sau:
Thứ nhất, thể chế hóa đầy đủ các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 10 tháng 02 năm 2022 về định hướng chiến lược địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và chính sách, pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực địa chất, khoáng sản.
Thứ hai, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật, đặc biệt là các quy định pháp luật có liên quan đến lĩnh vực địa chất, khoáng sản; bảo đảm kế thừa hiệu quả các quy định hiện hành; tháo gỡ vướng mắc, khó khăn; giảm tối đa thủ tục hành chính.
Thứ ba, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho chính quyền địa phương để địa phương chủ động trong việc phát triển kinh tế xã hội, phù hợp với thực tế gắn với trách nhiệm thẩm quyền được giao; đồng thời thiết lập công cụ kiểm soát quyền lực, giám sát thực hiện; xử lý được những tồn tại, tiêu cực trong lĩnh vực địa chất, khoáng sản.
b) Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan có liên quan tiếp thu tối đa ý kiến của các Thành viên Chính phủ, các bộ, cơ quan liên quan, tập trung hoàn thiện Đề nghị xây dựng luật với các nội dung sau:
- Về tên gọi của Luật: Thống nhất với đề xuất đổi tên dự án Luật này thành Luật Địa chất và Khoáng sản.
- Chính sách 1: Về tài nguyên địa chất, khoáng sản; điều tra cơ bản địa chất, điều tra cơ bản địa chất về tài nguyên khoáng sản; thông tin, dữ liệu địa chất, khoáng sản: Thống nhất với nội dung chính sách. Tuy nhiên, cần tiếp tục kế thừa các quy định về điều tra địa chất về khoáng sản và các thông tin dữ liệu về điều tra địa chất, khoáng sản để làm cơ sở dữ liệu dùng chung của các cơ quan quản lý nhà nước (xây dựng, giao thông, nông nghiệp...); đẩy mạnh chuyển đổi số, phục vụ cho các ngành kinh tế, bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả.
- Chính sách 2: Về hoàn thiện chính sách về bảo vệ tài nguyên địa chất, khoáng sản; chiến lược, quy hoạch địa chất, khoáng sản: Thống nhất với nội dung chính sách, Tuy nhiên, cần tiếp tục rà soát, bảo đảm tính thống nhất với pháp luật có liên quan về quy hoạch, di sản văn hóa, bồi thường khi thu hồi dự án đầu tư...
- Chính sách 3: Về hoàn thiện chính sách về khu vực khoáng sản: Thống nhất với nội dung chính sách. Tuy nhiên, cần tiếp tục nghiên cứu giải quyết những tồn tại trong thời gian qua như không cho phép đầu tư dự án phát triển kinh tế, xã hội trên bề mặt khu vực dự trữ khoáng sản quốc gia; không có quy định rõ về thời gian dự trữ để các địa phương chủ động trong phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn, ảnh hưởng đến đời sống của người dân...
- Chính sách 4: Về hoàn thiện chính sách trong quản lý hoạt động thăm dò, khai thác khoáng sản: Thống nhất với nội dung chính sách. Tuy nhiên, cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền gắn với kiểm soát, giám sát việc thực hiện theo hướng địa phương chịu trách nhiệm toàn diện trên địa bàn nhằm khắc phục những vướng mắc trong thực tế (thủ tục cấp phép), tránh tình trạng cục bộ địa phương, gây thất thoát ngân sách nhà nước, Đặc biệt, cần nghiên cứu đổi mới thẩm quyền, phân cấp, đơn giản hóa tối đa thủ tục hành chính liên quan đến cấp phép thăm dò, khai thác vật liệu xây dựng thông thường (đất để san lấp mặt bằng, cát, sỏi...) cung cấp cho các công trình kết cấu hạ tầng sử dụng vốn nhà nước, phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, phòng, chống thiên tai. Ngoài ra, cần bổ sung chính sách về chế biến khoáng sản bảo đảm sử dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại, bảo vệ môi trường và chính sách xuất nhập khẩu khoáng sản theo định hướng tại Nghị quyết số 10-NQ/TW của Bộ Chính trị.
- Chính sách 5: Tài chính về địa chất, khoáng sản: Thống nhất với nội dung chính sách. Tuy nhiên, pháp luật về khoáng sản hiện hành chưa đồng bộ với quy định của Luật Đấu giá tài sản, vì vậy cần có quy định vừa bảo đảm tính đồng bộ với Luật Đấu giá tài sản, vừa quy định được tính đặc thù trong đấu giá quyền khai thác khoáng sản (đặc biệt là đối với các mỏ khoáng sản chưa xác định được trữ lượng).
Giao Phó Thủ tướng Lê Văn Thành chỉ đạo Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tiếp tục rà soát, đánh giá các chính sách, bổ sung hoàn thiện các giải pháp, bảo đảm tính toàn diện, thống nhất, khả thi; hoàn thiện hồ sơ Đề nghị xây dựng Luật, gửi Bộ Tư pháp để đề nghị Quốc hội bổ sung dự án Luật này vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023 theo quy định.
3. Đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dược
Chính phủ cơ bản thống nhất về sự cần thiết, mục tiêu sửa đổi toàn diện Luật Dược nhằm xử lý những tồn tại, hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn; bảo đảm đáp ứng kịp thời thuốc theo hướng đủ về số lượng, tốt về chất lượng, giá hợp lý, phục vụ yêu cầu phòng bệnh, chữa bệnh; khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư sản xuất thuốc, vắc xin, sinh phẩm, thiết bị, vật tư y tế, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị dược phẩm trong khu vực và trên thế giới.
a) Đề nghị xây dựng Luật cần quán triệt các quan điểm, yêu cầu sau:
Thứ nhất, thể chế hóa đầy đủ các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 20/NQ-TW ngày 25 tháng 10 năm 2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới; đặt sức khỏe, tính mạng người dân lên trên hết, trước hết.
Thứ hai, bảo đảm tính thống nhất, tính đồng bộ trong hệ thống pháp luật về quản lý, sản xuất, kinh doanh dược; tiếp cận tối đa các thông lệ quốc tế cũng như phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đổi mới mạnh mẽ quy trình, thủ tục hành chính theo hướng cắt giảm tối đa thủ tục hành chính cho người dân và doanh nghiệp; nội dung sửa đổi phải có đánh giá tác động đầy đủ và cụ thể.
Thứ ba, giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc từ thực tiễn phòng, chống đại dịch và các vấn đề cấp bách cần tháo gỡ ngay để bảo đảm cung ứng đủ thuốc khám bệnh, chữa bệnh cho Nhân dân; bảo đảm kịp thời, khoa học, an toàn, hiệu quả, trong đó chú trọng đến vấn đề an toàn.
Thứ tư, tăng cường quản lý chặt chẽ các loại dược liệu, nguyên liệu làm thuốc; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với tăng cường trách nhiệm các cấp, các ngành, phòng, chống tiêu cực, tham nhũng.
b) Bộ Y tế khẩn trương chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan có liên quan tiếp thu tối đa ý kiến của các Thành viên Chính phủ, các bộ, cơ quan liên quan, tập trung hoàn thiện Đề nghị xây dựng luật với các nội dung sau:
- Chính sách 1: Về bảo đảm cung ứng đủ, kịp thời thuốc đáp ứng yêu cầu an ninh, quốc phòng, khắc phục hậu quả thiên tai, phòng, chống dịch bệnh trong tình hình mới: Thống nhất với nội dung chính sách. Tuy nhiên, để bảo đảm sự thống nhất, đồng thuận cao của các cơ quan liên quan và của các đối tượng chịu tác động của chính sách này, đồng thời tăng tính thuyết phục của Chính phủ khi đề xuất chính sách này với Quốc hội, đề nghị Bộ Y tế tiếp tục nghiên cứu để bổ sung thêm căn cứ từ thực tiễn áp dụng Luật Dược hiện hành, kinh nghiệm quốc tế khi lựa chọn một số giải pháp thực hiện chính sách này.
- Chính sách 2: Về tăng cường hơn nữa việc cung ứng đủ, kịp thời thuốc có chất lượng cho nhu cầu phòng bệnh, chữa bệnh của người dân: Thống nhất với nội dung chính sách. Đây là chính sách rất kịp thời nhằm tạo điều kiện cho người dân được tiếp cận sớm, đủ, kịp thời thuốc, vắc xin để phòng chữa bệnh, đặc biệt là thuốc mới được sản xuất bởi các nước tiên tiến trên thế giới và thuốc mới sản xuất trong nước.
- Chính sách 3: Về nâng cao hiệu quả quản lý xuất khẩu, nhập khẩu thuốc, nguyên liệu làm thuốc phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội và thông lệ quốc tế; Thống nhất với nội dung chính sách. Bộ Y tế cần tiếp tục đánh giá kỹ lưỡng hơn nữa về tính tương thích, khả thi đối với những giải pháp nêu ra tại Tờ trình khi chính sách này được thực hiện trong điều kiện của Việt Nam.
Bộ Y tế chỉnh sửa lại 03 chính sách nêu trên thành nhiều chính sách hơn với các giải pháp của chính sách theo hướng đánh giá một cách toàn diện, đầy đủ các bất cập trong công tác quản lý nhà nước về dược, đề xuất đầy đủ các giải pháp, nội dung quy định cần sửa đổi, bảo đảm toàn diện, khả thi. Chính phủ thống nhất với đề xuất của Bộ Y tế bổ sung thêm 02 Chính sách: (1) Đẩy mạnh phát triển công nghiệp dược, ưu tiên nghiên cứu, tiếp nhận chuyển giao công nghệ và sản xuất thuốc phát minh, thuốc công nghệ cao, thuốc/nguyên liệu sinh học, thuốc dược liệu chuẩn hóa, nguyên liệu từ nguồn dược liệu có sẵn trong nước; (2) Tổ chức, sắp xếp lại hệ thống kinh doanh, phân phối thuốc, nguyên liệu làm thuốc đáp ứng tình hình phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.
c) Giao Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam chỉ đạo Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tiếp tục rà soát, đánh giá các chính sách, bổ sung hoàn thiện các giải pháp, bảo đảm tính toàn diện, thống nhất, khả thi; hoàn thiện hồ sơ Đề nghị xây dựng Luật, gửi Bộ Tư pháp để đề nghị Quốc hội bổ sung dự án Luật này vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2024 theo quy định.