Quy định chặt về quyền, nghĩa vụ của đương sự trong cung cấp chứng cứ
Về cụ thể hóa nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử, Tổ biên tập Dự án Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) sửa đổi cho biết, hiện còn các quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng, nguyên tắc tranh tụng nhằm quán triệt các thẩm phán khi tiến hành tố tụng phải tạo điều kiện để đương sự thực hiện quyền tranh tụng, về cơ bản vẫn giữ nguyên như trước đây, chỉ sửa đổi, bổ sung nội dung cụ thể thể hiện nguyên tắc này tập trung về thủ tục tố tụng tại phiên tòa như tách phần trình bày các chứng cứ của các đương sự riêng mà không quy định trong thủ tục hỏi như BLTTDS hiện hành, quy định việc công bố lời khai của đương sự khi tranh luận tại phiên tòa mà vắng mặt bị đơn, người có quyền nghĩa vụ liên quan…
Quan điểm thứ 2 cho rằng, đây là nguyên tắc quan trọng cần được thể hiện xuyên suốt trong quá trình tố tụng, từ giai đoạn thụ lý đến giai đoạn thu thập chứng cứ và xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm. Theo hướng này, phạm vi sửa đổi, bổ sung là toàn diện. Cụ thể, sẽ quy định chặt chẽ về quyền, nghĩa vụ, thủ tục cung cấp chứng cứ, chứng minh; trách nhiệm thu thập chứng cứ là nội dung trọng tâm. Thời hạn giao nộp chứng cứ của đương sự do thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc ấn định nhưng phải trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử ở cấp sơ thẩm, trừ trường hợp có trở ngại khách quan mà không thể giao nộp chứng cứ đúng thời hạn.
Chứng cứ do đương sự giao nộp phải được đương sự chụp, sao và gửi cho đương sự khác và VKS cùng cấp. Khi nhận được chứng cứ từ đương sự, Tòa án chuyển bản sao bản chụp và các chứng cứ cho phía bên kia, kèm theo yêu cầu đương sự đưa ra ý kiến về việc chấp nhận hay không chấp nhận chứng cứ đó; đồng thời gửi bản sao tài liệu này đến VKS cùng cấp đối với những trường hợp VKS tham gia phiên tòa hoặc có yêu cầu. Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu của Tòa án, đương sự phải có văn bản trả lời. Trường hợp đương sự không có ý kiến thì được xem như đã chấp nhận chứng cứ do phía bên kia cung cấp. Trong trường hợp phải thẩm tra lại chứng cứ mà đương sự cung cấp thì Tòa án có thể hoãn phiên tòa nhưng tổng số lần hoãn đối với một vụ án không được quá hai lần.
Cũng theo Tổ biên tập, quy định bổ sung phiên họp xem xét chứng cứ để đảm bảo việc thụ lý vụ việc được công khai, minh bạch, đúng pháp luật; các bên được trình bày, được biết chứng cứ của nhau cũng như đảm bảo tính có căn cứ, sự tồn tại của quyền, lợi ích cần được bảo vệ.
Quy định nói trên cũng nâng cao trách nhiệm của người tham gia tố tụng. Cụ thể đối với đương sự sẽ phân định rõ các quyền, nghĩa vụ của người tham gia tố tụng. Họ có thể lựa chọn làm hoặc không làm những quyền của mình theo luật định. Còn về nghĩa vụ nếu đương sự không thực hiện thì phải chịu hậu quả do việc không thực hiện nghĩa vụ mang lại. Bên cạnh đó, quy định này cũng tăng cường trách nhiệm của nguyên đơn cũng như tính khả thi trong việc thực thi nghĩa vụ của bị đơn. Sơ thảo BLTTDS đã được thể hiện theo quan điểm thứ 2.
Lo “quy định không khả thi”
Phó Viện trưởng Viện Khoa học kiểm sát, VKSNDTC Hoàng Thị Quỳnh Chi e ngại “quy định đương sự có chứng cứ phải sao gửi cho đương sự khác để đảm bảo các bên biết được chứng cứ của nhau là không khả thi”. Theo bà Chi, có thể quy định theo hướng đương sự nộp chứng cứ đó cho Tòa án, để đương sự phía bên kia có yêu cầu thì Tòa án sẽ cung cấp.
Chánh Tòa Dân sự TANDTC Hoàng Văn Liên cho biết, chứng cứ chứng minh trong tố tụng dân sự là vấn đề nổi cộm được đặt ra từ khi sửa đổi BLTTDS năm 2011 song do có nhiều ý kiến khác nhau nên việc sửa đổi không triệt để. “Ta trao quyền cung cấp chứng cứ cho người dân nhưng thực tế thẩm phán khi thấy cần thiết vẫn tiến hành xác minh hoặc yêu cầu đương sự cung cấp thêm chứng cứ. Tuy nhiên vấn đề này lại chưa được đề cập trong dự thảo”. Ông Liên cũng đề nghị cần quy định rõ trách nhiệm của người dân, của Tòa án trong việc cung cấp, xác minh chứng cứ.
Vấn đề này, Chánh án TANDTC Trương Hòa Bình nêu rõ quan điểm “trách nhiệm cung cấp chứng cứ chứng minh của hai bên đương sự là đương nhiên, song Tòa án, VKS cũng không thể đứng ngoài. Tuy nhiên, cần quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan nắm giữ thông tin và có chế tài xử lý nếu không cung cấp”. Bởi, theo Chánh án, thậm chí có những trường hợp cơ quan chức năng không cung cấp, dân yêu cầu, Tòa án phải xác minh nhưng nhiều khi chỉ nhận được văn bản trả lời không chính xác.
Chánh án TANDTC cũng yêu cầu “phải quy định trong Bộ luật người khởi kiện phải cung cấp chứng cứ cho bên kia để biết họ kiện gì, không thì Tòa phải công khai nhưng quy trình như thế nào phải làm rõ”.
Thu Hằng
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Đinh Trung Tụng:
Chúng ta sửa đổi BLTTDS trong điều kiện hết sức thuận lợi, khi Hiến pháp mới được thông qua và có hiệu lực đã quy định rõ Tòa án thực hiện quyền tư pháp, quy định những nguyên tắc quan trọng về tranh tụng; quy định Tòa án bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân… Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng để nghiên cứu sửa đổi BLTTDS lần này. Do đó, cần bám sát các quy định của Hiến pháp và gắn việc sửa đổi Bộ luật với quá trình tổng kết Bộ luật hiện hành.
Về cơ bản, tôi nhất trí với việc sửa đổi cơ bản, toàn diện Bộ luật. Tuy nhiên, riêng vấn đề thời hiệu khởi kiện thì có nên quy định hay không? Vì nếu quy định thời hiệu khởi kiện sẽ hạn chế quyền con người, quyền công dân. Vấn đề thời hiệu khởi kiện hiện nay cũng đang vướng trên thực tiễn, đơn cử như trong các vụ chia thừa kế mà hết thời hiệu. Dự án Bộ luật Dân sự đang sửa đổi do Bộ Tư pháp chủ trì cũng không quy định về thời hiệu khởi kiện.
Riêng về vấn đề liên quan đến Thừa phát lại, quy định trong BLTTDS sẽ không thừa vì hiện nay việc thực hiện thí điểm tại 13 địa phương đang rất hiệu quả, khả năng thành công của chế định này là rất lớn. |