Là Bộ trưởng Bộ Tư pháp đầu tiên sau ngày Bộ Tư pháp được tái lập năm 1981, Bộ trưởng Phan Hiền đã để lại những dấu ấn nổi bật. Giai đoạn này đánh dấu việc xây dựng nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn của Bộ, ngành Tư pháp sau tái lập; xây dựng nhiều bộ luật, luật đầu tiên, trong đó có những bộ luật "rường cột" như Bộ luật Hình sự 1985, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 1988; cũng như ký kết nhiều hiệp định tương trợ tư pháp quan trọng...
Bộ trưởng đầu tiên sau tái lập Bộ Tư pháp
Ngày 14/7/1960, tại Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa II đã thông qua Luật Tổ chức Hội đồng Chính phủ. Theo Luật này, trong Hội đồng Chính phủ không có Bộ Tư pháp. Các nhiệm vụ của Bộ Tư pháp (các nhiệm vụ về tư pháp công an, công tố, xét xử, thi hành án) được chuyển giao cho Bộ Công an, Viện KSND tối cao, TAND tối cao và một phần cho chính quyền địa phương.
Trong suốt thời gian hơn 10 năm sau đó, không còn cơ quan nào giúp Chính phủ quản lý thống nhất và toàn diện các công việc về xây dựng, thi hành pháp luật trên cả nước (Vụ Pháp chế được thành lập năm 1957 trực thuộc Thủ tướng Chính phủ nhưng chức năng rất hạn chế).
Năm 1972, trong Tờ trình do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận định: “Chúng ta chưa phát huy được đầy đủ tác dụng tích cực của pháp chế xã hội chủ nghĩa trong mọi mặt hoạt động của Nhà nước”. Xuất phát từ yêu cầu của việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, năm 1972, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã có Nghị quyết số 233 NQ/TVQH phê chuẩn thành lập Ủy ban Pháp chế trực thuộc Hội đồng Chính phủ.
Mặc dù vậy, thực tiễn trong 20 năm cho thấy việc “không có Bộ Tư pháp là điều rất không hợp lý”, ngày 17/3/1981, trong phiên họp về công tác nội chính, Bộ Chính trị đã quyết định về việc tái lập Bộ Tư pháp làm nhiệm vụ của Ủy ban Pháp chế của Chính phủ và một phần nhiệm vụ của TAND tối cao.
Tới tháng 7/1981, tại Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa VII đã thông qua danh sách các thành viên của Hội đồng Bộ trưởng, trong đó có Bộ trưởng Bộ Tư pháp Phan Hiền.
Dưới sự lãnh đạo của Bộ trưởng Phan Hiền, Bộ Tư pháp đã trình Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 143-HĐBT ngày 22/11/1981 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức Bộ Tư pháp, tạo tiền đề pháp lý quan trọng để xây dựng và tổ chức lại Bộ, ngành Tư pháp trong những năm đầu được tái lập.
Nghị định quy định Bộ Tư pháp là cơ quan của Hội đồng Bộ trưởng, có chức năng giúp Hội đồng Bộ trưởng thực hiện quản lý thống nhất các công việc về tư pháp trong cả nước, bao gồm công tác dự thảo pháp luật, quản lý về mặt tổ chức các Tòa án địa phương và các công tác tư pháp khác; công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa trong cán bộ và nhân dân; góp phần bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp luật; tăng cường chuyên chính vô sản, thực hiện quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân.
.jpg)
Buổi gặp mặt thân mật nhân ngày thành lập lại ngành Tư pháp. (Ảnh Tư liệu Phòng truyền thống Bộ Tư pháp)
Qua 20 năm “gián đoạn”, việc thành lập lại Bộ Tư pháp - tháng 7/1981 là dấu mốc quan trọng trong chặng đường 80 năm xây dựng, phát triển của Bộ, ngành Tư pháp. Và người được trao trọng trách “kiến thiết” ngành Tư pháp của giai đoạn mới là đồng chí Phan Hiền - khi đó đang giữ chức Bộ trưởng phụ trách thông tin và quan hệ văn hóa với nước ngoài.
Trong giai đoạn đồng chí Phan Hiền đảm nhận cương vị Bộ trưởng Bộ Tư pháp (từ ngày 4/7/1981 đến ngày 15/4/1992), chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp từng bước được mở rộng. Từ ngày 1/1/1982, Bộ Tư pháp chính thức nhận bàn giao nhiệm vụ quản lý công tác thi hành án trong phạm vi cả nước sang Bộ Tư pháp.
Từ năm 1987, Bộ Tư pháp tiếp nhận công tác quản lý nhà nước về đăng ký hộ tịch từ Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) theo Nghị định số 219/HĐBT ngày 20/11/1987 của Hội đồng Bộ trưởng.
Những bước tiến trong công tác xây dựng pháp luật
Là Bộ trưởng đầu tiên sau ngày tái lập Bộ, với chức năng nhiệm vụ của Bộ Tư pháp là cơ quan chuyên môn về “công tác dự thảo pháp luật”, một trong những dấu ấn nổi bật của giai đoạn này, dưới sự lãnh đạo của Bộ trưởng Phan Hiền là việc Bộ Tư pháp đã tham mưu, xây dựng và trình cấp có thẩm quyền xem xét, ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật quan trọng, trong đó có những bộ luật có tính chất “rường cột” của nền pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Có thể kể tới việc Bộ Tư pháp tham mưu với Hội đồng Bộ trưởng trình Quốc hội ban hành Bộ luật Hình sự và Bộ luật Yố tụng hình sự đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Bộ luật Hình sự năm 1985, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988), Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986.
.jpg)
Thông tin về Nghị quyết liên tịch giữa Ban Bí thư Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và Bộ Tư pháp về việc tăng cường giáo dục pháp luật trong đoàn viên và thanh niên đăng tải trên Báo Pháp luật Thường thức. (nay là Pháp luật Việt Nam).
Trong bài viết “Bước tiến mới trong công tác xây dựng pháp luật của Nhà nước ta” (Tạp chí Cộng sản, số 6/1984), Bộ trưởng Phan Hiền đánh giá: Bộ luật Hình sự được ban hành đánh dấu bước tiến mới trong công tác xây dựng pháp luật của Nhà nước, có ý nghĩa lớn trong việc thực hiện các Nghị quyết Đại hội lần thứ IV, V của Đảng về mặt tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Bộ luật Hình sự 1985 đã thể chế hóa toàn diện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước. Đây là việc chưa từng có trong công tác lập pháp hình sự của Nhà nước Việt Nam mới, thể hiện tinh thần chủ động phòng ngừa, kiên quyết và triệt để chống tội phạm; bảo đảm tính nghiêm khắc nhưng cũng khoan hồng; trừng trị nhưng không xem nhẹ mặt giáo dục…
“Không chỉ các cơ quan chuyên trách mà tất cả các cơ quan nhà nước, tất cả các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải hiểu biết, nắm chính sách hình sự, trên cơ sở này tích cực tham gia công tác phòng ngừa và chống tội phạm”, bài viết nhấn mạnh.
Trong bài viết “Mấy vấn đề về tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”, (Tạp chí Cộng sản, số 10/1985), Bộ trưởng Phan Hiền sau khi điểm lại những dấu mốc lịch sử trong quá trình xây dựng và thực hiện chế độ cách mạng đã nêu rõ yêu cầu cấp thiết của việc hoàn chỉnh hệ thống pháp luật.
Bài viết thẳng thắn chỉ ra “công tác xây dựng pháp luật vẫn chậm. Còn khá nhiều vấn đề chưa được quy định cụ thể, việc dự thảo một số bộ luật, luật được tổ chức đã nhiều năm vẫn chưa có cơ quan hoàn thành” và đặt ra yêu cầu những quy định của pháp luật phải “bám sát cuộc sống”, “phải theo kịp sự phát triển của xã hội, phản ánh và thúc đẩy sự phát triển đó”.
Bên cạnh đó là yêu cầu bảo đảm pháp luật được tuân theo nghiêm chỉnh: “Có pháp luật, thậm chí có hệ thống pháp luật đầy đủ nhưng pháp luật không được chấp hành đúng đắn, không thật sự đi vào cuộc sống thì chưa phải là có pháp chế. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa không chỉ là đẩy mạnh việc xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, mà về cơ bản phải thực hiện đầy đủ các biện pháp pháp luật thâm nhập vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội”.
.jpg)
Cặp da và sổ làm việc đồng chí Phan Hiền sử dụng khi làm việc tại Bộ Tư pháp.
Tinh thần thượng tôn pháp luật được Bộ trưởng Phan Hiền nhấn mạnh: “Mọi cơ quan nhà nước, mọi tổ chức xã hội, mọi công dân đều phải nghiêm túc tuân theo pháp luật. Đảng viên, cán bộ càng phải gương mẫu chấp hành pháp luật; bất cứ ai, dù ở cương vị xã hội nào đều không được đặt mình lên trên pháp luật, đều không có đặc quyền bỏ qua pháp luật, làm sai pháp luật”. Bộ trưởng Phan Hiền cũng là người đã gợi mở, đưa ra nhiều ý kiến quan trọng, đặt cơ sở về đổi mới tư duy pháp lý, xây dựng và thi hành pháp luật, trong đó có đổi mới nhận thức về vai trò pháp luật.
Bộ trưởng khẳng định: “Sức mạnh của pháp luật, nhất là trong điều kiện đổi mới là ở chỗ nó là thước đo chung cho hành động của con người. Trường hợp nào thì được hành động, trường hợp nào thì cấm hành động. Hành động nào là đúng, sai, tốt, xấu, công, tội”. “Thiếu pháp luật không tài nào quản lý được. Hơn nữa, pháp luật không những là một công cụ trong hệ thống các công cụ quản lý mà nó còn là cái áo khoác ngoài của tất cả các công cụ khác”.
Cũng trong giai đoạn đồng chí Phan Hiền đảm nhận cương vị Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bộ Tư pháp đã tham mưu với Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành một số pháp lệnh tạo tiền đề pháp lý vững chắc để xây dựng một số lĩnh vực pháp luật quan trọng như Pháp lệnh về tổ chức luật sư năm 1987, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 1989, Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989. Đây đều là các Pháp lệnh đầu tiên trong lĩnh vực này.
Bên cạnh đó, dưới sự lãnh đạo của Bộ trưởng Phan Hiền, Bộ Tư pháp còn trình cấp có thẩm quyền hoặc tham mưu với Hội đồng Bộ trưởng trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quan trọng khác như Pháp lệnh trừng trị tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép ngày 30/6/1982; Nghị định số 46/HĐBT ngày 10/5/1983 của Hội đồng Bộ trưởng quy định việc xử lý bằng biện pháp hành chính các hành vi đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép; Nghị định 178/HĐBT ngày 17/6/1985 của Hội đồng Bộ trưởng về tổ chức pháp chế ở các ngành, các đơn vị sản xuất, kinh doanh thuộc khu vực Nhà nước; Nghị định số 117/HĐBT ngày 21/7/1988 của Hội đồng Bộ trưởng về giám định tư pháp; Nghị định 15/HĐBT ngày 21/2/1989 của Hội đồng Bộ trưởng về Quy chế Đoàn Luật sư; Nghị định 68/HĐBT ngày 6/3/1990 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quy chế Chấp hành viên; Nghị định số 45/CP ngày 27/2/1991 của Hội đồng Bộ trưởng về tổ chức và hoạt động của công chứng Nhà nước...
Ký kết nhiều Hiệp định tương trợ tư pháp quan trọng
.jpg)
Chủ tịch nước tặng Huân chương Hồ Chí Minh cho đồng chí Phan Hiền vì đã có công lao to lớn, có nhiều thành tích xuất sắc, đóng góp vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc.
Là người có kinh nghiệm phong phú và từng kinh qua nhiều vị trí quan trọng trong ngành ngoại giao, đối ngoại, đảm nhiệm cương vị Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Phan Hiền đã lãnh đạo và được sự cho phép của các cơ quan có thẩm quyền, trong giai đoạn này, Bộ Tư pháp đã ký kết nhiều Hiệp định tương trợ tư pháp quan trọng. Trong đó, phải kể tới việc ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Liên Xô năm 1981; Việt Nam và Tiệp Khắc năm 1982; Việt Nam và Campuchia năm 1983; Việt Nam và Cuba năm 1984; Việt Nam và Hungary năm 1985; Việt Nam và Bungary năm 1986.
Bộ trưởng Phan Hiền cũng là một trong 16 thành viên của Ủy ban dự thảo sửa đổi và bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1980 theo Nghị quyết của Quốc hội khóa VIII tại Kỳ họp thứ 4 ngày 22/12/1988. Sau đó, ngày 30/6/1989, Quốc hội khóa VIII tại Kỳ họp thứ 5 đã thông qua Nghị quyết thành lập Ủy ban sửa đổi Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó, Bộ trưởng Phan Hiền là một trong 26 thành viên của Ủy ban.
Ngày 15/4/1992, Hiến pháp đầu tiên của thời kỳ Đổi mới đất nước (Hiến pháp năm 1992) đã được Quốc hội ban hành trong đó có sự đóng góp có giá trị của Bộ trưởng Phan Hiền với tư cách thành viên Ủy ban dự thảo.
Có thể khẳng định rằng, trong những thành tựu chung mà Bộ, ngành Tư pháp đạt được trong hơn 10 năm đầu sau khi tái lập (1981 - 1992) có dấu ấn đậm nét của người "thuyền trưởng", "tư lệnh ngành" - đồng chí Phan Hiền.
Tóm tắt quá trình công tác của đồng chí Phan Hiền
Đồng chí Phan Hiền. Tên khai sinh là Lê Thụy Lan, sinh năm 1918. Quê quán: xã Bình Vọng, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây.
Từ năm 1944 đến 1945, công tác tại đội tuyên truyền xung phong tại Hà Nội. Từ tháng 8/1945 đến tháng 12/1949: Thành ủy viên, Ký ủy viên, Trung ương ủy viên Đảng Dân chủ. Từ tháng 1/1950 đến tháng 12/1954: Cán bộ Tổng cục Chính trị Bộ Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam, Chính trị viên Trung đoàn, Liên chi ủy viên.
Từ tháng 1/1955 đến tháng 8/1973: Vụ trưởng Vụ Đông Nam Á, Vụ trưởng Vụ Bắc Mỹ, Bộ Ngoại giao. Ủy viên đoàn Việt Nam đi thương lượng với Mỹ tại Paris.
Từ tháng 9/1973 đến tháng 5/1980: Thứ trưởng Bộ Ngoại giao. Từ tháng 6/1980 đến tháng 7/1981: Bộ trưởng phụ trách thông tin và quan hệ văn hóa với nước ngoài.
Từ tháng 8/1981 đến tháng 7/1992: Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Đồng chí Phan Hiền đã được Đảng và Nhà nước truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh (năm 2008); tặng thưởng nhiều Huân, Huy chương cao quý: Huân chương Độc lập hạng Nhất; Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhất; Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất; Huân chương Chiến công hạng Ba; Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng; Huy chương Vì sự nghiệp Ngoại giao; Huy chương Vì sự nghiệp Tư pháp… |
(*) Bài viết có sử dụng tư liệu của Viện Khoa học Pháp lý (nay là Viện Chiến lược và Khoa học pháp lý), Vụ Tổ chức cán bộ (Bộ Tư pháp); Sách Ngành Tư pháp - 60 năm phấn đấu xây dựng và trưởng thành...
Đ.Anh - G.Hoàng