1. Đặt vấn đề
Theo nội dung trao đổi của đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, tại buổi gặp mặt học viên Lớp bồi dưỡng cán bộ quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV (lớp thứ 3) tổ chức ngày 31/10/2024 tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, “Kỷ nguyên là một giai đoạn lịch sử được đánh dấu bởi những đặc điểm quan trọng hoặc sự kiện có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của xã hội - văn hóa - chính trị - tự nhiên. Kỷ nguyên thường được sử dụng để phân chia thời gian trong lịch sử theo những biến cố lớn hoặc có sự thay đổi căn bản trong đời sống chính trị hay khoa học, công nghệ, môi trường. Kỷ nguyên vươn mình hàm ý tạo sự chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát, quyết liệt, tích cực, nỗ lực, nội lực, tự tin để vượt qua thách thức, vượt qua chính mình, thực hiện khát vọng, vươn tới mục tiêu, đạt được những thành tựu vĩ đại”. Như vậy, quan điểm của Tổng Bí thư Tô Lâm quan niệm về “kỷ nguyên” được hiểu là một giai đoạn đặc thù trong lịch sử nhân loại, được phân định bởi các dấu mốc, sự kiện hoặc thay đổi lớn mang tính bước ngoặt về chính trị, khoa học, môi trường hoặc văn hóa - xã hội. Việc xác lập một kỷ nguyên cụ thể thường đi liền với những chuyển biến sâu sắc trong đời sống cộng đồng hoặc sự định hình mới về cách tổ chức xã hội. Đây là kỷ nguyên phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hướng đến sánh vai với các cường quốc năm châu vào giữa thế kỷ XXI.
Trong giai đoạn phát triển mới, đặc biệt là bối cảnh chuyển đổi số toàn diện và hội nhập quốc tế sâu rộng, yêu cầu đối với hệ thống pháp luật trở nên ngày càng cấp thiết. Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về “Đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” (Nghị quyết số 66-NQ/TW) là dấu mốc quan trọng khẳng định vị trí trung tâm của pháp luật trong kiến tạo phát triển, củng cố Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
2. Tư duy xây dựng, thực hiện pháp luật từ tư tưởng Hồ Chí Minh và Nghị quyết số 66-NQ/TW trong kỷ nguyên mới
(i) Tư tưởng Hồ Chí Minh: đặt nền tảng cho quan niệm hiện đại về quản lý xã hội bằng pháp luật ở Việt Nam. Ngay từ bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” (1919), Người đã khẳng định yêu cầu thiết lập một nhà nước hợp hiến, với pháp luật giữ vai trò tối thượng: “Bảy xin Hiến pháp ban hành. Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Tư tưởng đó được Người tiếp tục phát triển trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, đặc biệt nhấn mạnh vai trò của Hiến pháp, pháp luật trong việc bảo vệ dân chủ, quyền con người, quyền công dân: “Dân chủ đúng đắn cũng ở nơi pháp luật, sự bình đẳng trong xã hội ở nơi pháp luật” Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Do vậy, ngay trong Điều 1 Hiến pháp năm 1946 - bản Hiến pháp do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo soạn thảo đã khẳng định: “Nước Việt Nam là một nước Dân chủ Cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.
Không chỉ dừng ở nội dung, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh yêu cầu dân chủ trong quá trình xây dựng pháp luật. Theo Người, Hiến pháp, pháp luật muốn phản ánh đúng ý chí và nguyện vọng của Nhân dân thì phải “trưng cầu ý kiến của Nhân dân cả nước một cách thật rộng rãi”. Người cũng yêu cầu chống lối làm việc chủ quan, mệnh lệnh, coi trọng điều tra, nghiên cứu thực tiễn và sự tham gia của quần chúng vào quá trình xây dựng chính sách pháp luật ; các yếu tố pháp luật, kỷ luật, kỷ cương luôn đi liền với yêu cầu về đạo đức, trước hết là đạo đức tận tụy phục vụ Nhân dân. “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh” và “Đảng ta là một đảng cầm quyền”; “trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”, “Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”.
Những quan điểm trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện rõ tư duy xây dựng, thực hiện pháp luật như: lấy dân làm gốc, Nhân dân là nguồn gốc và chủ thể của quyền lực nhà nước; tất cả vì con người, vì tự do, ấm no, hạnh phúc của Nhân dân; quản lý nhà nước, quản lý xã hội dựa trên pháp luật và thực hiện pháp luật công bằng với nền hành chính và tư pháp liêm chính, đạo đức, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Việc tiếp tục kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc để giải quyết “điểm nghẽn” của thể chế cần nhấn mạnh tư duy xây dựng pháp luật phải lấy thực tiễn đời sống làm cơ sở, đặt lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân và doanh nghiệp vào trung tâm trong quá trình hoạch định chính sách, pháp luật.
(ii) Nghị quyết số 66-NQ/TW: Bước đột phá chiến lược trong cải cách pháp luật và phát triển đất nước. Ngày 30/4/2025, thời điểm cả nước kỷ niệm 50 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Bộ Chính trị đã chính thức ban hành Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Sự kiện này không chỉ mang ý nghĩa chính trị sâu sắc mà còn đánh dấu bước ngoặt mang tính chiến lược trong việc hoàn thiện thể chế quốc gia. Nghị quyết 66 xác lập quan điểm nhất quán rằng công tác xây dựng và thi hành pháp luật phải trở thành “đột phá của đột phá” trong hoàn thiện thể chế phát triển. Thực tế cho thấy, trong thời gian qua, nhiều chủ trương, định hướng lớn của Đảng vẫn chưa được thể chế hóa kịp thời, gây ra những khoảng trống trong quản lý và điều hành. Một số văn bản pháp luật còn nặng về tính kiểm soát, hạn chế tính năng động và sáng tạo trong xã hội.
Bối cảnh quốc tế và trong nước đang thay đổi sâu sắc. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, sự dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu, cũng như yêu cầu nội tại về phát triển bền vững, đòi hỏi Việt Nam phải có một hệ thống pháp luật hiện đại, minh bạch, đồng bộ và linh hoạt. Nghị quyết số 66-NQ/TW được ban hành trong chính bối cảnh đó như một sự chuẩn bị có tính chiến lược để đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên phát triển mới. Điểm nhấn đáng chú ý trong nghị quyết là việc xác định rõ vai trò trung tâm của Đảng trong công tác xây dựng pháp luật, đi cùng với yêu cầu kiểm soát quyền lực hiệu quả, phòng chống tham nhũng, loại bỏ lợi ích nhóm, và ngăn chặn tình trạng “hướng lái” chính sách vì lợi ích cá nhân. Đây là những nội dung thể hiện quyết tâm mạnh mẽ trong việc làm trong sạch bộ máy, bảo đảm công lý và thượng tôn pháp luật. Thực tế cho thấy, việc xây dựng pháp luật dù có tốt đến đâu nhưng nếu thiếu cơ chế thực thi hiệu quả thì vẫn không thể phát huy tác dụng. Nghị quyết số 66-NQ/TW đã chỉ rõ yêu cầu phải gắn kết chặt chẽ giữa khâu xây dựng và thi hành pháp luật, đồng thời xây dựng văn hóa tuân thủ pháp luật trong toàn xã hội. Đây là nền tảng để xây dựng một nhà nước pháp quyền vững mạnh, hoạt động hiệu quả và phục vụ nhân dân.
3. Gợi mở một số giải pháp đổi mới mạnh mẽ tư duy xây dựng, thực hiện pháp luật từ tư tưởng Hồ Chí Minh và Nghị quyết số 66-NQ/TW trong kỷ nguyên mới
Một là, đổi mới quan niệm mới về nguồn luật, tiếp tục coi trọng dữ liệu “vai trò của thực tiễn và xã hội”: Trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN nói chung và tại Việt Nam nói riêng, cần đổi mới cách tiếp cận nguồn luật. Ngoài các văn bản quy phạm pháp luật, cần thừa nhận và khai thác giá trị từ án lệ, tập quán pháp, nguyên tắc chung của pháp luật và các chuẩn mực xã hội, nghề nghiệp. Thực tiễn đời sống phải được coi là nguồn sống động của pháp luật, và tiếng nói của xã hội phải được lắng nghe, phản ánh đầy đủ vào quá trình xây dựng chính sách và pháp luật. Pháp luật phải xuất phát từ thực tiễn, điều chỉnh thực tiễn và thúc đẩy thực tiễn phát triển “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật, coi đây là “đột phá của đột phá”… cần đổi mới căn bản tư duy xây dựng pháp luật, coi đây là “đột phá của đột phá” trong hoàn thiện thể chế phát triển. Trong kỷ nguyên mới, pháp luật phải thật sự là nền tảng của phát triển, phục vụ phát triển và thúc đẩy phát triển; “lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể”. Công tác xây dựng pháp luật phải áp dụng cách tiếp cận thực tế và thực tiễn; bảo đảm phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước, giải đáp các vướng mắc của cuộc sống và tìm ra con đường phát triển từ thực tiễn.
Hai là, tăng cường áp dụng đồng thời hai nguyên tắc: "đưa cuộc sống vào luật" và "đưa luật vào cuộc sống". Cả hai nguyên tắc cần được thực hiện đồng bộ, liên tục, ngay từ khâu xây dựng, ban hành đến khâu tổ chức thi hành pháp luật, tổng kết đánh giá.
Ba là, triệt để thực hiện dân chủ hóa quy trình xây dựng pháp luật: tham vấn, phản biện, minh bạch: Quy trình xây dựng pháp luật phải bảo đảm sự tham gia thực chất, rộng rãi của các tầng lớp nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp - doanh nhân, chuyên gia trong việc tham vấn, phản biện chính sách, pháp luật. Đặc biệt không ngại ý kiến trái chiều, ý kiến phản đối (nếu có căn cứ cần tiếp tục nghiên cứu chắt lọc tiếp thu.
Bốn là, chuyên nghiệp hóa nguồn nhân lực lập pháp - kiến tạo nền tảng pháp lý đổi mới: Đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật cần được chuyên nghiệp hóa, có trình độ chuyên môn cao về pháp luật, có tư duy xây dựng chính sách công, có tư duy đổi mới sáng tạo và gắn bó mật thiết với thực tiễn đời sống, xây dựng thực chất các có chế độ ưu đãi đặc thù để thu hút nhân tài phục vụ công tác xây dựng pháp luật.
Năm là, tăng cường tính thích ứng, tính định hướng phát triển, tính giảm chi phí tuân thủ luật pháp: Hệ thống pháp luật phải bảo đảm khả năng thích ứng nhanh với thay đổi kinh tế, xã hội, khoa học - công nghệ. Pháp luật không chỉ mang tính điều chỉnh mà còn mang tính dẫn dắt, mở đường cho đổi mới sáng tạo và phát triển. Đồng thời, cần cải cách mạnh mẽ để giảm chi phí tuân thủ pháp luật cho người dân và doanh nghiệp, xây dựng môi trường pháp lý minh bạch, thông thoáng, thuận lợi cho khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế.
Sáu là, quan điểm xuyên suốt cần gắn lập pháp với chiến lược phát triển Nhà nước pháp quyền đến 2030, định hướng 2045: Công tác xây dựng cần bám sát và phục vụ chiến lược phát triển Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045, phải đảm bảo mục tiêu xây dựng hệ thống pháp luật hiện đại, dân chủ, công bằng, khả thi, bảo vệ vững chắc quyền con người, quyền công dân, văn hóa tuân thủ pháp luật trở thành chuẩn mực ứng xử./.
TS Trần Văn Duy - Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý, Bộ Tư pháp
Tài liệu tham khảo:
1. Chu Mai Phong, 2023, "Quan điểm của Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền," Truy cập tại https://www,tuyengiaokontum,org,vn/ly-luan-chinh-tri/quan-diem-cua-ho-chi-minh-ve-nha-nuoc-phap-quyen-5256,html, truy cập lúc 17h ngày 20/4/2025,
2. GS.TS Tô Lâm, (2025), Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam: Nội dung trao đổi một số nội dung về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc với các học viên Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV (lớp thứ 3), Hà Nội
3. Hồ Chí Minh, 2011, Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 10, Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr, 453, 510.511
4. Hồ Chí Minh, 2011, Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 10, Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr, 453, 510–511
5. Hồ Chí Minh, 2011, Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 13, Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 71
6. Hồ Chí Minh, 2011, Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 3, Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 168
7. Hồ Chí Minh, 2011, Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 4, Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 7
8. Hồ Chí Minh, 2011, Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 4, Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 65
9. Hồ Chí Minh, 2011, Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 5, Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr, 293.299
10. Nguyễn Hải Ninh (2025), Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật, coi đây là “đột phá của đột phá”, truy cập tại https://baochinhphu.vn/bo-truong-nguyen-hai-ninh-doi-moi-tu-duy-xay-dung-phap-luat-coi-day-la-dot-pha-cua-dot-pha-102241109094704396.htm, truy cập lúc 24h ngày 10 tháng 6 năm 2025
11. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2019, Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ, Hà Nội, tr. 8