Để các quan hệ xã hội vận hành trong khuôn khổ, bên cạnh việc điều chỉnh các quan hệ bằng văn bản quy phạm pháp luật thì các tập quán có vai trò như một “công cụ mềm”, góp phần không nhỏ trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, đặc biệt đối với những quan hệ mang tính truyền thống, văn hóa như quan hệ hôn nhân và gia đình.
Dẫn đề
Khoản 1 Điều 7 Luật Hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) năm 2014 quy định: “Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thỏa thuận thì tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc, không trái với nguyên tắc quy định tại Điều 2 và không vi phạm điều cấm của Luật này được áp dụng” và khoản 2 Điều 7 giao nhiệm vụ cho Chính phủ hướng dẫn chi tiết nội dung trên. Thực hiện nhiệm vụ này, ngày 31/12/2014, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 126/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật HN&GĐ, trong đó, tại Chương I (từ Điều 1 đến Điều 6) quy định về phạm vi điều chỉnh, áp dụng tập quán về HN&GĐ.
Điều 6 Nghị định số 126/2016/NĐ-CP quy định: “1. Trong thời hạn ba năm kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) có trách nhiệm xây dựng, trình Hội đồng nhân dân cùng cấp phê duyệt danh mục các tập quán về HN&GĐ được áp dụng tại địa phương. 2. Căn cứ vào thực tiễn áp dụng tập quán về HN&GĐ tại địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp sửa đổi, bổ sung danh mục tập quán đã ban hành”. Tuy nhiên, kể từ khi Luật HN&GĐ năm 2014, Nghị định số 126/2014/NĐ-CP được ban hành cho đến nay, chưa có địa phương nào ban hành danh mục tập quán về HN&GĐ. Do đó, chuyên đề này sẽ tập trung làm rõ một số nội dung sau: quy định pháp luật hiện hành về tập quán về HN&GĐ; một số khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai nhiệm vụ tại địa phương; hướng dẫn của Bộ Tư pháp về việc triển khai nội dung này; tình hình thực hiện của địa phương đến thời điểm hiện tại và định hướng, giải pháp.
1. Quy định pháp luật hiện hành về tập quán về HN&GĐ
1.1. Khái niệm
Khái niệm “tập quán” đã được ghi nhận tại BLDS năm 2015 tại khoản 1 Điều 5, theo đó, “tập quán là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng để xác định quyền, nghĩa vụ của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự cụ thể, được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài, được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong một vùng, miền, dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc trong một lĩnh vực dân sự”. Tập quán có thể có trong từng lĩnh vực cụ thể và được pháp luật ghi nhận, chẳng hạn: tập quán thương mại được ghi nhận tại Luật Thương mại năm 2005, tập quán trong lĩnh vực đất đai được ghi nhận tại Luật Đất đai năm 2024, tập quán về HN&GĐ được ghi nhận tại Luật HN&GĐ (HN&GĐ) năm 2014…
Khoản 4 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định tập quán về HN&GĐ như sau: “tập quán về HN&GĐ là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng về quyền, nghĩa vụ của các bên trong quan hệ HN&GĐ, được lặp đi, lặp lại trong một thời gian dài và được thừa nhận rộng rãi trong một vùng, miền hoặc cộng đồng”. Bên cạnh đó, Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật HN&GĐ (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015) có quy định về “tập quán lạc hậu về HN&GĐ”, được hiểu là “tập quán trái với những nguyên tắc cơ bản của chế độ HN&GĐ quy định tại Điều 2 của Luật HN&GĐ hoặc vi phạm điều cấm quy định tại Khoản 2 Điều 5 của Luật HN&GĐ” (khoản 2 Điều 5 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP). Nghị định số 126/2014/NĐ-CP đã ban hành kèm theo Phụ lục về Danh mục các tập quán lạc hậu về HN&GĐ cần vận động xóa bỏ hoặc cấm áp dụng. Phụ lục này gồm 07 tập quán cần vận động xóa bỏ và 07 tập quán cấm áp dụng (xin xem Phụ lục kèm theo)
1.2. Quy định về việc áp dụng tập quán
Tập quán được BLDS năm 2015 ghi nhận là nguồn luật bổ sung trong trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định, trong trường hợp này, tập quán điều chỉnh về quan hệ của các bên sẽ được áp dụng trước, nếu không có tập quán thì mới áp dụng quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự, các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 BLDS (1), án lệ, lẽ công bằng. Việc áp dụng tập quán không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự (khoản 2 Điều 5, Điều 6 BLDS năm 2015).
Tương tự như BLDS năm 2015, Luật HN&GĐ năm 2014 quy định về việc áp dụng tập quán về HN&GĐ như sau: “trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thỏa thuận thì tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc, không trái với nguyên tắc quy định tại Điều 2 và không vi phạm điều cấm của Luật này được áp dụng” (khoản 1 Điều 7).
Nghị định số 126/2014/NĐ-CP đã quy định chi tiết, cụ thể hơn về nguyên tắc áp dụng tập quán về HN&GĐ (2), cụ thể:
- Thứ nhất, tập quán được áp dụng phải đáp ứng đủ các tiêu chí sau: (i) là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng về quyền, nghĩa vụ của các bên trong quan hệ HN&GĐ; (ii) được lặp đi, lặp lại trong một thời gian dài; (iii) được thừa nhận rộng rãi trong một vùng, miền hoặc cộng đồng;
- Thứ hai, việc áp dụng tập quán phải tuân theo các điều kiện như: (i) pháp luật không quy định và các bên không có thỏa thuận về vấn đề này. Các bên không có thỏa thuận ở quy định này được hiểu là các bên không có thỏa thuận về áp dụng tập quán và cũng không có thỏa thuận khác về vụ, việc cần được giải quyết (3); (ii) tập quán này là tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc; (iii) không trái với những nguyên tắc cơ bản của chế độ HN&GĐ (4) và không vi phạm điều cấm của Luật HN&GĐ (5);
- Thứ ba, tôn trọng sự thỏa thuận của các bên về tập quán được áp dụng. Trường hợp các bên có thỏa thuận về tập quán được áp dụng thì giải quyết theo thỏa thuận đó. Nếu các bên không có thỏa thuận về tập quán được áp dụng, mà vụ, việc HN&GĐ được giải quyết có áp dụng tập quán thì thực hiện việc hòa giải theo quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở, khuyến khích sự tham gia hòa giải của người có uy tín trong cộng đồng, chức sắc tôn giáo. Trường hợp hòa giải không thành hoặc vụ, việc HN&GĐ có áp dụng tập quán không thuộc phạm vi hòa giải ở cơ sở thì Tòa án giải quyết vụ, việc đó theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự (Khoản 2 Điều 3, Điều 4 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP).
Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 có quy định về nguyên tắc áp dụng tập quán trong trường hợp giải quyết vụ việc dân sự chưa có điều luật để áp dụng, theo đó, “Tòa án áp dụng tập quán để giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định. Tập quán không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật dân sự. Khi yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền viện dẫn tập quán để yêu cầu Tòa án xem xét áp dụng. Tòa án có trách nhiệm xác định giá trị áp dụng của tập quán bảo đảm đúng quy định tại Điều 5 của Bộ luật dân sự. Trường hợp các đương sự viện dẫn các tập quán khác nhau thì tập quán có giá trị áp dụng là tập quán được thừa nhận tại nơi phát sinh vụ việc dân sự” (khoản 1 Điều 45). Bên cạnh đó, BLTTDS năm 2015 cũng quy định: trong trường hợp các bên không thỏa thuận, pháp luật không quy định và không có tập quán để giải quyết vụ việc dân sự, thì Tòa án mới áp dụng tương tự pháp luật, các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng để giải quyết vụ việc dân sự (khoản 2, khoản 3 Điều 45).
1.3. Chính sách của Nhà nước về tập quán
Tập quán là một trong những chính sách được Nhà nước quan tâm và ghi nhận tại BLDS năm 2015, theo đó, “việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự phải bảo đảm giữ gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng và phát huy phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp, tình đoàn kết, tương thân, tương ái, mỗi người vì cộng đồng, cộng đồng vì mỗi người và các giá trị đạo đức cao đẹp của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam” (khoản 1 Điều 7).
Tại Luật HN&GĐ năm 2014 cũng ghi nhận tại khoản 1 Điều 4, theo đó, Nhà nước có chính sách, biện pháp “tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về HN&GĐ; vận động nhân dân xóa bỏ phong tục, tập quán lạc hậu về HN&GĐ, phát huy truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc”.
Khoản 1 Điều 5 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP quy định: các Bộ, ngành liên quan và Ủy ban nhân dân các cấp phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có trách nhiệm xây dựng, thực hiện các chính sách, biện pháp:
“a) Tạo điều kiện để người dân thực hiện các quy định của pháp luật về HN&GĐ; phát huy truyền thống, tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc, xóa bỏ tập quán lạc hậu về HN&GĐ;
b) Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về HN&GĐ, vận động người dân phát huy truyền thống, tập quán tốt đẹp và xóa bỏ tập quán lạc hậu về HN&GĐ;
c) Giáo dục thế hệ trẻ bảo tồn, phát triển ngôn ngữ, chữ viết và phát huy các giá trị văn hóa trong tập quán tốt đẹp của mỗi dân tộc”.
2. Một số khó khăn, vướng mắc trong việc triển khai xây dựng danh mục tập quán về HN&GĐ tại địa phương
Sau khi Nghị định số 126/2014/NĐ-CP được ban hành, các địa phương đã ban hành Kế hoạch triển khai xây dựng danh mục tập quán về HN&GĐ. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khách quan, chủ quan khác nhau, tính đến thời điểm hiện tại, về cơ bản, các địa phương chưa xây dựng được danh mục tập quán về HN&GĐ được áp dụng tại địa phương (6). Một trong số các khó khăn được các địa phương đề cập đến trong việc thực hiện nhiệm vụ này là: (1) Đây là vấn đề phức tạp, còn có nhiều ý kiến khác nhau trong quá trình thực hiện, do đó, cần có văn bản hướng dẫn cụ thể hơn; (2) Còn chưa rõ Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phê duyệt danh mục các tập quán về HN&GĐ được ban hành dưới hình thức văn bản quy phạm pháp luật hay văn bản cá biệt; (3) Tập quán được áp dụng cho những quan hệ cụ thể khi không có quy định của pháp luật, do đó việc xác định tập quán nào được áp dụng hay không được áp dụng cần có ý kiến, hướng dẫn của Tòa án (7).
3. Hướng dẫn của Bộ Tư pháp liên quan đến việc triển khai xây dựng danh mục các tập quán về HN&GĐ được áp dụng tại địa phương
Pháp luật HN&GĐ cơ bản đã có những quy định về tập quán về HN&GĐ (như đã nêu ở phần 1), làm cơ sở để các địa phương triển khai xây dựng danh mục các tập quán về HN&GĐ. Đối với những khó khăn, vướng mắc mà địa phương đề cập, Bộ Tư pháp đã có văn bản hướng dẫn cụ thể, làm căn cứ để địa phương triển khai nhiệm vụ được giao như sau:
(1) Về hình thức văn bản của HĐND cấp tỉnh phê duyệt Danh mục tập quán về HN&GĐ là văn bản quy phạm pháp luật hay văn bản cá biệt, ngày 21/5/2024, Bộ Tư pháp đã có Công văn số 2563/BTP-PLDSKT gửi Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hướng dẫn về hình thức văn bản của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phê duyệt Danh mục tập quán về HN&GĐ áp dụng tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Theo đó, căn cứ vào các quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 và Nghị định số 126/2014/NĐ-CP, Bộ Tư pháp đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng, trình Hội đồng nhân dân cùng cấp Nghị quyết phê duyệt danh mục các tập quán về HN&GĐ được áp dụng tại địa phương theo trình tự, thủ tục quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hướng dẫn thi hành Luật này.
(2) Về nội dung, danh mục tập quán về HN&GĐ áp dụng tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần đảm bảo phù hợp với quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 (như Điều 1, Điều 2, khoản 4 Điều 3, Điều 5, Điều 7…); Điều 5 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 6 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP và các quy định pháp luật khác có liên quan; đồng thời, bảo đảm phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương.
Bên cạnh đó, ngày 21/10/2024, Bộ Tư pháp có Công văn số 6037/BTP-PLDSKT gửi Sở Tư pháp tỉnh Đồng Nai cho ý kiến đối với nội dung Nghị quyết phê duyệt danh mục phong tục tập quán về HN&GĐ, theo đó, Bộ Tư pháp đề nghị “rà soát toàn bộ nội dung dự thảo Nghị quyết với các quy định của Luật HN&GĐ năm 2014, BLDS năm 2015 và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan để đảm bảo tính hợp pháp, thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật và đảm bảo tính khả thi, hợp lý sau khi ban hành, đồng thời phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương. Trong đó, đề nghị lưu ý các tập quán được rà soát, lựa chọn, ghi nhận tại danh mục cần đảm bảo: (1) chưa có quy định pháp luật điều chỉnh; (2) không trái hoặc khác với quy định pháp luật hiện hành; (3) chứa đựng nội dung về quyền, nghĩa vụ của các bên trong quan hệ HN&GĐ”.
Ngoài ra, Tòa án nhân dân tối cao đã có Văn bản số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 về giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ, trong đó. văn bản này hướng dẫn cụ thể về việc áp dụng tập quán mà các bên có viện dẫn tập quán khác nhau. Theo đó, “khi xem xét, quyết định áp dụng tập quán thì Tòa án căn cứ Điều 3, Điều 5 và các quy định khác của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 45 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, tùy từng trường hợp cụ thể giải quyết như sau: Tập quán có giá trị áp dụng là tập quán không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015. Trường hợp có nhiều tập quán thì áp dụng tập quán do các bên thỏa thuận; nếu các đương sự viện dẫn các tập quán khác nhau thì tập quán có giá trị áp dụng là tập quán được thừa nhận tại nơi phát sinh vụ việc dân sự” (mục III.1).
4. Tình hình triển khai xây dựng danh mục các tập quán về HN&GĐ tại địa phương
Thực hiện Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; Nghị định số 126/2014/NĐ-CP; Công văn số 2563/BTP-PLDSKT ngày 21/5/2024 của Bộ Tư pháp, nhiều địa phương đã triển khai xây dựng danh mục các tập quán về HN&GĐ bằng nhiều hoạt động như: rà soát, tổ chức khảo sát về các phong tục, tập quán liên quan đến quan hệ HN&GĐ tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tổng hợp danh mục tập quán về HN&GĐ đang được áp dụng tại địa phương; xây dựng dự thảo Nghị quyết; lấy ý kiến góp ý đối với dự thảo Nghị quyết phê duyệt danh mục các tập quán về HN&GĐ…
Theo thông tin các địa phương gửi đến Bộ Tư pháp, tính đến thời điểm hiện tại:
- Có 10 địa phương cho biết tại địa phương không có tập quán về HN&GĐ đủ điều kiện ban hành Danh mục theo quy định. Cụ thể: một số địa phương cho biết các tập quán về HN&GĐ tốt đẹp đang được áp dụng trong cộng đồng dân cư trên địa bàn tỉnh đều đã được pháp luật quy định; một số tập quán tại địa phương thuộc tập quán không phù hợp với khoản 4 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 hoặc đang vận động xóa bỏ hoặc cấm áp dụng, các tập quán lạc hậu, tập quán cấm áp dụng theo Nghị định số 126/2014/NĐ-CP được địa phương tuyên truyền, vận động xóa bỏ, không áp dụng các tập quán lạc hậu, tập quán cấm áp dụng vào đời sống sinh hoạt của cộng đồng dân cư trên địa bàn tỉnh; một số địa phương cung cấp thông tin quan hệ HN&GĐ trên địa bàn tỉnh được thực hiện theo quy định của pháp luật HN&GĐ, không áp dụng phong tục tập quán.
- 02 địa phương đang triển khai xây dựng tập quán về HN&GĐ;
- 02 địa phương có văn bản xin ý kiến Bộ Tư pháp về danh mục, nội dung tập quán về HN&GĐ (Bộ Tư pháp đã có văn bản hướng dẫn). Có địa phương báo cáo hiện còn tồn tại phong tục ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số như: tảo hôn, tình trạng chung sống với nhau như vợ chồng không có đăng kết hôn, vẫn còn tình trạng tranh chấp sính lễ trong ngày cưới, đòi lại của cải, phạt vạ khi vợ, chồng ly hôn…
5. Định hướng, giải pháp
Luật HN&GĐ năm 2014 được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 19/6/2014, có hiệu lực từ ngày 01/01/2015. Thực hiện quy định tại khoản 3 Điều 59 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025; Điều 9 Nghị định số 80/2025/NĐ-CP ngày 01/4/2025 của Chính phủ về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật, ngày 14/6/2024, Bộ Tư pháp đã có Quyết định số 1098/QĐ-BTP ban hành Kế hoạch tổng kết 10 năm thi hành Luật HN&GĐ. Trong năm 2025, Bộ Tư pháp sẽ rà soát, nghiên cứu, đánh giá tình hình thực hiện các quy định của Luật HN&GĐ, các văn bản hướng dẫn thi hành và các văn bản luật có liên quan, các vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn HN&GĐ cần được điều chỉnh; tổ chức các Hội thảo, Tọa đàm và tiến hành tổ chức Hội nghị tổng kết toàn quốc về thi hành Luật HN&GĐ năm 2014, từ đó sẽ đề xuất, định hướng đối với pháp luật về HN&GĐ, trong đó có các quy định liên quan đến tập quán về HN&GĐ./.
Vụ Pháp luật dân sự - kinh tế
***
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TẬP QUÁN LẠC HẬU VỀ HN&GĐ CẦN VẬN ĐỘNG XÓA BỎ HOẶC CẤM ÁP DỤNG
(Theo Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ)
I. CÁC TẬP QUÁN LẠC HẬU VỀ HN&GĐ CẦN VẬN ĐỘNG XÓA BỎ
1. Kết hôn trước tuổi quy định của Luật HN&GĐ.
2. Việc đăng ký kết hôn không do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện.
3. Cưỡng ép kết hôn do xem “lá số” và do mê tín dị đoan; cản trở hôn nhân do khác dân tộc, tôn giáo.
4. Cấm kết hôn giữa những người có họ trong phạm vi từ bốn đời trở lên.
5. Nếu nhà trai không có tiền cưới và đồ sính lễ thì sau khi kết hôn, người con rể buộc phải ở rể để trả công cho bố, mẹ vợ.
6. Quan hệ gia đình theo chế độ phụ hệ hoặc mẫu hệ, không bảo đảm quyền bình đẳng giữa vợ và chồng, giữa con trai và con gái.
a) Chế độ phụ hệ:
Khi ly hôn, nếu do người vợ yêu cầu ly hôn thì nhà gái phải trả lại nhà trai toàn bộ đồ sính lễ và những phí tổn khác; nếu do người chồng yêu cầu ly hôn thì nhà gái vẫn phải trả lại nhà trai một nửa đồ sính lễ. Sau khi ly hôn, nếu người phụ nữ kết hôn với người khác thì không được hưởng và mang đi bất cứ tài sản gì. Sau khi cha, mẹ ly hôn, con phải theo cha.
Khi người chồng chết, người vợ góa không có quyền hưởng phần di sản của người chồng quá cố để lại. Nếu người vợ góa tái hôn với người khác thì không được hưởng và mang đi bất cứ tài sản gì.
Khi người cha chết, chỉ các con trai có quyền còn các con gái không có quyền hưởng phần di sản của người cha quá cố để lại.
b) Chế độ mẫu hệ:
Người con bị bắt buộc phải mang họ của người mẹ.
Khi người vợ chết, người chồng góa không có quyền hưởng phần di sản của người vợ quá cố để lại và không được mang tài sản riêng của mình về nhà.
Khi người mẹ chết, chỉ các con gái có quyền còn các con trai không có quyền hưởng phần di sản của người mẹ quá cố để lại.
Sau khi ở rể, người con rể bị “từ hôn” hoặc sau khi ăn hỏi, nhận đồ sính lễ, người con trai bị “từ hôn” thì không được bù trả lại.
7. Không kết hôn giữa người thuộc dân tộc này với người thuộc dân tộc khác và giữa những người khác tôn giáo.
II. CÁC TẬP QUÁN LẠC HẬU VỀ HN&GĐ CẤM ÁP DỤNG
1. Chế độ hôn nhân đa thê.
2. Kết hôn giữa những người có cùng dòng máu về trực hệ, giữa những người khác có họ trong phạm vi ba đời.
3. Tục cướp vợ để cưỡng ép người phụ nữ làm vợ.
4. Thách cưới cao mang tính chất gả bán (như đòi bạc trắng, tiền mặt, của hồi môn, trâu, bò, chiêng ché… để dẫn cưới).
5. Phong tục “nối dây”; Khi người chồng chết, người vợ góa bị ép buộc kết hôn với anh trai hoặc em trai của người chồng quá cố; khi người vợ chết, người chồng góa bị ép buộc kết hôn với chị gái hoặc em gái của người vợ quá cố.
6. Bắt buộc người phụ nữ góa chồng hoặc người đàn ông góa vợ, nếu kết hôn với người khác thì phải trả lại tiền cưới cho nhà chồng cũ hoặc nhà vợ cũ.
7. Đòi lại của cải, phạt vạ khi vợ, chồng ly hôn./.
***
Chú thích:
(1). “Điều 3. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự
1. Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản.
2. Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng.
3. Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực.
4. Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
5. Cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự”.
(2). Điều 2 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP
(3). Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP
(4). “Điều 2. Những nguyên tắc cơ bản của chế độ HN&GĐ
1. Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.
2. Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, tôn giáo, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa người có tín ngưỡng với người không có tín ngưỡng, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
3. Xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; các thành viên gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không phân biệt đối xử giữa các con.
4. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật thực hiện các quyền về HN&GĐ; giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ; thực hiện kế hoạch hóa gia đình.
5. Kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam về HN&GĐ”.
(5). Để bảo vệ chế độ HN&GĐ, khoản 2 Điều 5 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định cấm các hành vi sau:
“a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;
b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;
c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;
d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
đ) Yêu sách của cải trong kết hôn;
e) Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn;
g) Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính;
h) Bạo lực gia đình;
i) Lợi dụng việc thực hiện quyền về HN&GĐ để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi”.
(6). Số liệu cụ thể được nêu tại mục 4 chuyên đề này.
(7). Báo cáo số 255/BC-BTP ngày 23/9/2019 của Bộ Tư pháp về kết quả sơ kết thi hành Luật HN&GĐ năm 2014.
(8). Gồm: tỉnh Lào Cai, tỉnh Gia Lai, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, tỉnh Hậu Giang, tỉnh Bắc Ninh, tỉnh Đắk Nông, tỉnh Thừa Thiên Huế, tỉnh Tây Ninh, tỉnh Đắk Lắk, tỉnh Phú Thọ.
(9). Tỉnh Đắk Nông, tỉnh Gia Lai, tỉnh Phú Thọ, tỉnh Đắk Lắk.
(10). Tỉnh Bắc Ninh, tỉnh Hậu Giang, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
(11). Gồm: tỉnh An Giang, thành phố Hồ Chí Minh.
(12). Cụ thể: tỉnh Đồng Nai, tỉnh Lâm Đồng.
(13). Tỉnh Đồng Nai.