Hành nghề công chứng và tổ chức hành nghề công chứng ở Cộng hòa Pháp, CHLB Đức [1]

06/09/2022
Luật Công chứng năm 2014 khi được triển khai thực hiện đã đạt nhiều kết quả cụ thể, tiếp tục đóng góp tích cực vào việc thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng; đảm bảo tính an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch… góp phần tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi, tin cậy cho các hoạt động đầu tư, kinh doanh, thương mại và góp phần quan trọng vào tiến trình cải cách hành chính và cải cách tư pháp. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện đã phát sinh một số vấn đề mới; một số quy định của Luật đã bộc lộ hạn chế, bất cập cần sửa đổi, bổ sung để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và phù hợp với thông lệ quốc tế. Trong bài viết này, chúng tôi giới thiệu về hành nghề công chứng, tổ chức hành nghề công chứng và tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên ở Cộng hòa Pháp, Cộng hòa Liên bang Đức từ đó rút ra bài học cho Việt Nam.
I. VỀ HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG
Công chứng viên của CH Pháp, CHLB Đức cũng như của các nước thuộc hệ thống công chứng Latinh đóng vai trò then chốt trong luật về bất động sản, luật thế chấp, luật về hợp đồng, luật công ty cũng như các luật khác về gia đình và thừa kế. Các công chứng viên là các cố vấn độc lập, trung lập và khách quan cho tất cả các bên tham gia giao dịch. Họ kiểm tra ý trí của các bên, dự thảo hợp đồng và các công cụ cần thiết để thực hiện giao dịch dự kiến và đảm bảo các quy định trong hợp đồng tuân thủ quy định của pháp luật
[2].
1. Chế độ hành nghề và hình thức hành nghề của công chứng viên
a) Chế độ hành nghề
 Một trong những nguyên tắc của chế độ hành nghề công chứng được hầu hết các nước trên thế giới công nhận và áp dụng thống nhất là việc công chứng viên phải hành nghề chuyên nghiệp. Công chứng viên bị cấm kiêm nhiệm những chức danh tư pháp khác hoặc thực hiện những hoạt động kinh doanh khác. Ví dụ: (1) Tại CH Pháp, công chứng viên không được kiêm nhiệm chức năng công chứng với những chức năng khác như thẩm phán, kiểm sát viên, thư ký tòa án, đại tụng viên, thừa phát lại, cảnh sát và đấu giá viên. (2) Ở CHLB Đức, công chứng viên không được đồng thời giữ một chức danh được trả lương từ ngân sách nhà nước. Hoạt động chuyên nghiệp suốt đời là nguyên tắc chung của nghề công chứng, tuy nhiên pháp luật một số nước cũng cho phép những ngoại lệ nhất định với những điều kiện chặt chẽ mà cơ bản nhất là phải được cơ quan quản lý cho phép và việc kiêm nhiệm đó không làm ảnh hưởng hoặc không có nguy cơ làm ảnh hưởng đến hoạt động nghề nghiệp công chứng. Ví dụ: Tại CHLB Đức, mặc dù về nguyên tắc công chứng viên không được kiêm nhiệm nghề luật sư hoặc liên kết hành nghề với luật sư khác, song nếu được cơ quan giám sát cho phép thì công chứng viên được kiêm nhiệm luật sư trong một số trường hợp. Ngoài ra, công chứng viên còn có thể được phép hoạt động kinh doanh hoặc có hưởng thù lao, có mục đích kiếm lời
[3]. Những ngoại lệ này do cơ quan hành chính tư pháp bang và tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên cùng cấp xem xét, chấp thuận nhưng có thể bị chấm dứt bất kỳ lúc nào và công chứng viên cũng không được trực tiếp thực thi các hoạt động kinh doanh đó mà chỉ có thể đầu tư một cách gián tiếp.
b) Hình thức hành nghề
Tùy theo pháp luật của mỗi nước mà công chứng viên có duy nhất hoặc nhiều hình thức hành nghề để có thể lựa chọn một hình thức hành nghề phù hợp nhất. CH Pháp là một trong những nước cho phép nhiều hình thức hành nghề; theo đó, công chứng viên có thể hành nghề với tư cách cá nhân trong một văn phòng công chứng tư nhân, là thành viên của một tổ chức hành nghề hoặc làm công ăn lương cho một tổ chức hành nghề. Công chứng viên cũng có thể là thành viên của một tập đoàn kinh tế hoặc cổ đông của một công ty cổ phần. Cụ thể:
- Với hình thức văn phòng công chứng tư nhân, công chứng viên mới vào nghề sẽ tiếp nhận vị trí theo sự giới thiệu của công chứng viên đã nắm giữ vị trí hành nghề đó hoặc người thừa kế của họ lên Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Nếu một người bị tước danh hiệu công chứng viên thì việc tìm người thay thế họ được thực hiện trên cơ sở thi tuyển. Công chứng viên có thể chuyển nhượng vị trí hành nghề cho người khác như một cách chuyển nhượng thành quả lao động. Việc chuyển nhượng này tuân theo thủ tục chặt chẽ vì tính chất dịch vụ công của hoạt động công chứng (chỉ nhà nước mới được uỷ quyền cho công chứng viên, việc chuyển nhượng vị trí công tác được hiểu là công chứng viên chuyển nhượng giới thiệu công chứng viên nhận chuyển nhượng với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để cơ quan này xem xét, quyết định theo quy định chặt chẽ).
- Với hình thức công ty dân sự nghề nghiệp, công chứng viên không hành nghề với tư cách cá nhân mà với tư cách công ty. Công ty là chủ thể được Bộ trưởng Bộ Tư pháp giao nắm giữ vị trí hành nghề. Thủ tục bổ nhiệm vào vị trí hành nghề đối với một công ty tương tự như thủ tục bổ nhiệm đối với công chứng viên hành nghề với tư cách cá nhân, chỉ có một điểm khác là trong hồ sơ đề nghị bổ nhiệm phải có điều lệ của công ty và hợp đồng góp vốn và chuyển nhượng vốn trong công ty. Trong hình thức này, nếu có công chứng viên muốn chuyển nhượng vị trí hành nghề cho người khác, thì không có quyền giới thiệu như công chứng viên hành nghề với tư cách cá nhân, bởi vì quyền giới thiệu đó thuộc về công ty.
Công chứng viên là trưởng một văn phòng công chứng cá nhân chỉ được thuê tối đa một công chứng viên hưởng lương. Một tổ chức hành nghề công chứng không được sử dụng số công chứng viên hưởng lương vượt quá số lượng công chứng viên là cổ đông của tổ chức đó. Công chứng viên hưởng lương có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của công chứng viên theo quy định và theo hợp đồng lao động, phải tuân thủ các quy định pháp luật về hành nghề công chứng, đạo đức nghề nghiệp và quy chế kỷ luật đối với công chứng viên, song họ có quyền từ chối công chứng hoặc từ chối các nhiệm vụ khác theo phân công của công chứng viên trưởng tổ chức hành nghề công chứng, nếu thấy trái nhận thức hoặc tính độc lập của mình. Công chứng viên hưởng lương làm việc phục vụ khách hàng của tổ chức hành nghề công chứng chứ không có quyền có khách hàng riêng. Họ cũng không phải chịu trách nhiệm dân sự trực tiếp, mà là trưởng tổ chức hành nghề công chứng phải chịu. Công chứng viên hưởng lương chỉ bị thải hồi khi có quyết định chấm dứt hoạt động (miễn nhiệm) công chứng viên đó.
Theo pháp luật của CHLB Đức, mỗi công chứng viên làm việc tại một văn phòng công chứng của riêng mình. Việc liên kết hành nghề hoặc chung văn phòng với với công chứng viên khác phải do Chính phủ bang cho phép bằng một nghị định trên cơ sở nhu cầu địa phương.
2. Phạm vi thẩm quyền của công chứng viên
a) Phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ
Tại CH Pháp (sau khi bỏ giới hạn trong phạm vi một tỉnh theo lịch sử trước đây), công chứng viên có thẩm quyền trên toàn quốc (có thể công chứng văn bản tại bất cứ nơi nào của nước Pháp) ngoại trừ một số loại văn bản nhất định phải được công chứng tại văn phòng công chứng theo quy định của pháp luật.
Tại CHLB Đức, phạm vi này được xác định theo địa phận thẩm quyền của toà án khu vực nơi công chứng viên có văn phòng công chứng. Phạm vi này cũng được điều chỉnh phù hợp với địa phận thẩm quyền của các toà án. Công chứng viên chỉ được phép thực hiện các hoạt động công chứng ngoài phạm vi này nếu được cơ quan giám sát đồng ý hoặc vì lợi ích chính đáng của người yêu cầu công chứng, song có thể phải thông báo cho cơ quan giám sát, nếu có yêu cầu. Tuy nhiên, sự vi phạm về địa phận không ảnh hưởng đến hiệu lực của việc công chứng. Cụ thể là, để tạo điều kiện để người dân tiếp cận dễ dàng các dịch vụ công chứng
[4], pháp luật quy định rõ người dân được tự do lựa chọn bất kỳ công chứng viên nào, ở bất cứ đâu và các văn bản công chứng do một công chứng viên xác lập có hiệu lực thi hành và hợp lệ trên toàn quốc.
b) Phạm vi thẩm quyền theo loại việc
Tại các nước có truyền thống luật lục địa, bên cạnh chức năng công chứng hợp đồng, giao dịch, pháp luật nhiều nước quy định phạm vi các công việc công chứng viên được thực hiện rất rộng và đa dạng. Ví dụ:
Tại CHLB Đức, công chứng viên được thực hiện các việc liên quan đến chữ ký, lập danh mục tài sản, khiếu nại về séc và hối phiếu thế chấp, đấu giá.... công chứng viên có thẩm quyền lập các giấy xác nhận quyền đại diện, tiếp nhận sự tuyên thệ, lời khai có tuyên thệ, chứng nhận từ danh bạ đăng ký, cất giữ các đồ vật có giá trị, hướng dẫn và làm đại diện cho các bên tham gia, giữ các văn bản... theo quy định. [A2] 
Tại CHLB Đức, phạm vi này được xác định theo địa phận thẩm quyền của Toà án khu vực nơi công chứng viên có văn phòng công chứng. Phạm vi này cũng được điều chỉnh phù hợp với địa phận thẩm quyền của các Toà án. Công chứng viên chỉ được phép thực hiện các hoạt động công chứng ngoài phạm vi này nếu được cơ quan giám sát đồng ý hoặc vì lợi ích chính đáng của người yêu cầu công chứng, song có thể phải thông báo cho cơ quan giám sát nếu có yêu cầu. Tuy nhiên, sự vi phạm về địa phận không ảnh hưởng đến hiệu lực của việc công chứng. Cụ thể là để tạo điều kiện tiếp cận dễ dàng các dịch vụ công chứng ngay cả ở khu vực nông thôn, mỗi công chứng viên được phân công phụ trách một quận/huyện nhất định. Ở các thành phố lớn hơn, nhiều công chứng viên hành nghề trên cùng một địa bàn quận/huyện. Mặc dù trên thực tế các công chứng viên phải gắn với địa bàn mình đã được phân công, song người dân được tự do lựa chọn bất kỳ công chứng viên nào ở bất cứ đâu và các văn bản công chứng do một công chứng viên xác lập có hiệu lực thi hành và hợp lệ trên toàn quốc.
3. Nghĩa vụ của công chứng viên trong khi hành nghề
Công chứng viên có vai trò là cán bộ chuyên môn độc lập và trung lập, chuyên giải quyết sớm các vấn đề tư pháp để không xảy ra kiện tụng sau này khi thực hiện các thoả thuận. Do tầm quan trọng của nghề công chứng như vậy, nhiều nước quy định khi được bổ nhiệm công chứng viên phải tuyên thệ thực hiện chức năng công chứng một cách tự giác, chỉ tuân theo pháp luật, giữ gìn bí mật nghề nghiệp, bí mật Nhà nước, tôn trọng nguyên tắc trung thực, vô tư, liêm khiết.
Ở CHLB Đức, trong quá trình hành nghề, công chứng viên cũng luôn phải trung thành với tuyên thệ: vô tư, khách quan, không đại diện cho một bên đương sự. Công chứng viên phải chứng tỏ mình xứng đáng với nghề nghiệp, từ chối công chứng nếu xét thấy không phù hợp với nghiệp vụ của mình, nhất là thấy việc công chứng phục vụ mục đích bất hợp pháp và không lành mạnh. Ngược lại, công chứng viên cũng không có nghĩa vụ phải công chứng bằng ngôn ngữ khác với tiếng Đức hoặc do có lo ngại sẽ không vô tư, khách quan.
Ở CH Pháp, công chứng viên được xác định là công chức nhà nước có chức năng chứng nhận các hành vi và hợp đồng mà các bên phải hoặc muốn chứng nhận tính xác thực gắn với hoạt động của cơ quan công quyền, chứng nhận về thời gian, về nội dung thảo luận cũng như giá trị tài sản.
[5] Công chứng viên ở CH Pháp là công chức nhà nước được Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm. Tổ chức công chứng ở CH Pháp là một Ủy ban nhà nước có chức năng cung cấp dịch vụ công. Để thực hiện sứ mệnh của mình, Nhà nước ủy quyền cho công chứng viên có thẩm quyền bảo đảm tính xác thực. Điều này có nghĩa là công chứng viên nắm giữ quyền lực công được trao cho bởi Nhà nước.[6] Công chứng viên ở CH Pháp xác nhận tính xác thực bằng cách sử dụng con dấu và chữ ký của mình. Quy định liên quan đến hành vi xác thực được cụ thể ở Điều 1369 Bộ luật Dân sự Pháp.[7] Mặc dù được trao quyền bởi cơ quan nhà nước và được coi là những công chức nhà nước nhưng công chứng viên ở CH Pháp được tự do thực hiện nhiệm vụ của mình và phải tự trang trải chi phí để duy trì hoạt động cho văn phòng công chứng của mình.
[A3] a) Nghĩa vụ hành động
Với nhiệm vụ và quyền hạn được trao, công chứng viên không thể từ chối thực hiện việc công chứng mỗi khi nhận được yêu cầu của công dân, tổ chức, trừ phi hoạt động đó là trái với trật tự công cộng hoặc thuần phong mỹ tục. Pháp luật của CHLB Đức quy định rõ nghĩa vụ của công chứng viên là không được từ chối yêu cầu công chứng nếu không có lý do chính đáng.
Trách nhiệm này phải do chính công chứng viên trực tiếp thực hiện, song tại CH Pháp - có quy định rõ về chức danh thư ký công chứng thì công chứng viên có thể ủy quyền cho thư ký thực hiện một số công việc nếu được người yêu cầu công chứng đồng ý nhưng công chứng viên vẫn là người chịu trách nhiệm cuối cùng. Trong hầu hết các trường hợp thì công chứng viên thực hiện việc công chứng một mình, song
pháp luật của CH Pháp cũng có thể cho phép một số trường hợp văn bản công chứng được lập bởi 2 công chứng viên.[A4] 
b) Tuân thủ các quy tắc đạo đức nghề nghiệp và quy tắc kỷ luật
N
ghĩa vụ này phải được các công chứng viên tôn trọng vì họ là công chức chứ không chỉ là những người hoạt động tự do; nếu không tuân thủ các quy tắc này, họ sẽ bị kỷ luật dưới các hình thức khác nhau như cảnh cáo, đình chỉ hoặc miễn nhiệm.[A5] 
c) Giữ bí mật công vụ trong quá trình hành nghề
Đây là một trong những nghĩa vụ được hầu hết pháp luật các nước thống nhất quy định và là nghĩa vụ bắt buộc phải thực hiện, kể cả sau khi họ không còn là công chứng viên nữa. Theo đó, công chứng viên không được cấp bản sao công chứng hay tiết lộ nội dung văn bản với người không phải là đương sự, người thừa kế và người có nghĩa vụ, quyền lợi đối với đương sự, trừ trường hợp có lệnh của chánh án có thẩm quyền; nếu vi phạm mà gây thiệt hại thì bị phạt tiền, tái phạm sẽ bị đình chỉ hành nghề 3 tháng. Công chứng viên phải giữ bí mật công vụ, kể cả sau khi chấm dứt chức danh, và giải thích cho người làm việc cho
mình tuân thủ nghĩa vụ đó, trừ trường hợp được các bên tham gia hoặc cơ quan giám sát cho phép. Nếu nghi ngờ về nghĩa vụ này thì có thể yêu cầu cơ quan giám sát quyết định. [A6] 
d) Nghĩa vụ trung lập
Pháp luật của CH Pháp và CHLB Đức xác định rõ mỗi công chứng viên phải là một cán bộ pháp chế trung lập và khách quan. Công chứng viên là người hành nghề luật độc lập, có nhiệm vụ đánh giá một cách công tâm, không thiên vị những người yêu cầu cung cấp dịch vụ, và tư vấn cho họ những công cụ pháp lý phù hợp nhất để đạt được kết quả hợp pháp mà họ mong muốn. Theo đó, công chứng viên phải bảo đảm rằng, các quy định trong hợp đồng, giao dịch hoàn toàn tuân thủ luật pháp (kiểm soát tính hợp pháp để phòng ngừa); rằng các bên có đầy đủ năng lực (về tinh thần và pháp lý) để tham gia vào
thỏa thuận dự định của họ và họ đã hiểu rõ ý nghĩa pháp lý của các cam kết đó. Nếu không, công chứng viên được pháp luật yêu cầu từ chối hoàn tất giao dịch.[A7] 
đ) Nghĩa vụ tuân thủ quy định về phí
Mức phí công chứng thường được pháp luật quy định rất chặt chẽ. Một số nước chia phí công chứng thành những nhóm khác nhau tùy loại việc công chứng, song nghĩa vụ tuân thủ quy định về phí thì luôn được khẳng định ở tất cả các nước. Ví dụ: Biểu lệ phí công chứng ở CH Pháp được quy định khá rõ ràng bởi công chứng viên ở Pháp thực hiện chức năng phục vụ lợi ích công, nên biểu phí công chứng được quy định khá nghiêm ngặt và phải chịu một mức thuế. Vì vậy, khách hàng được bảo đảm trả một khoản thù lao có thể dự đoán trước được và minh bạch. Trong đó, thông thường, tổng chi phí phải trả cho công chứng viên bao gồm: 8/10 là thuế nộp cho nhà nước và chính quyền địa phương; 1/10 là các chi phí thực tế phát sinh trong quá trình thực hiện việc công chứng và 1/10 là thù lao dành cho công chứng viên.
[8]
4. Tạm ngừng, tạm đình chỉ hành nghề công chứng
a) Tạm ngừng hành nghề công chứng
Hầu hết các nước theo luật Latinh không cho phép văn phòng công chứng tạm ngừng hoạt động. Việc tạm ngừng hành nghề được đặt ra trong trường hợp công chứng viên bị ốm hoặc vì lý do bất khả kháng mà không thể hành nghề trong một khoảng thời gian nhất định. Thông thường, công chứng viên phải thông báo hoặc xin phép cơ quan quản lý về việc tạm ngừng và cơ quan này sẽ chỉ định một người thay công chứng viên trong thời gian đó để bảo đảm hoạt động liên tục, ổn định của tổ chức hành nghề công chứng. Trường hợp một công chứng viên bị đình chỉ hoặc tạm đình chỉ thì Nhà nước phải bảo đảm để tổ chức vẫn hoạt động để bảo đảm hoạt động cung cấp dịch vụ diễn ra bình thường. Ví dụ:
[A8] Ở CHLB Đức, công chứng viên vắng mặt hoặc có lý do hạn chế việc thi hành công vụ trên một tháng thì phải thông báo ngay cho cơ quan giám sát và phải được cơ quan này đồng ý. [A9] 
b) Tạm đình chỉ hành nghề công chứng
Mặc dù tính thường xuyên, liên tục trong hành nghề là một trong những yêu cầu bắt buộc của nghề công chứng, song vấn đề tạm đình chỉ hành nghề (tạm thời bãi chức danh công chứng viên) vẫn được quy định trong pháp luật công chứng của rất nhiều nước. Nhìn chung, công chứng viên bị tạm đình chỉ hành nghề trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ của công chứng viên ở mức độ tương đối nghiêm trọng mà có khả năng bị miễn nhiệm.
Tại CH Pháp, lý do bị tạm đình chỉ liên quan đến vấn đề ký quỹ. Cụ thể là, trong trường hợp số tiền ký quỹ mà công chứng viên nộp bị sử dụng toàn bộ hoặc một phần thì họ bị tạm đình chỉ hoạt động cho đến khi khôi phục đủ. Nếu không làm được trong vòng 6 tháng thì bị coi là bỏ nhiệm vụ và bị thay thế bởi một công chứng viên khác.
Công chứng viên tại CHLB Đức thì có thể bị bãi chức tạm thời vì rất nhiều lý do khác nhau, ví dụ như: trong trường hợp cơ quan giám sát cho rằng có tồn tại các điều kiện có thể bãi nhiệm công chứng viên, công chứng viên ở ngoài nơi thi hành công vụ trên 2 tháng mà không được phép của cơ quan giám sát hoặc trong thời gian bị tạm gian để điều tra hình sự, trong thời gian bị cấm hành nghề và cấm làm đại diện theo quy chế luật sư liên bang.  
[A10] 
Trong thời gian bị tạm thời bãi chức, toà án khu vực có trách nhiệm thu và quản lý hồ sơ, sổ sách, dấu, phù hiệu của công chứng viên. Công chứng viên không được thực hiện bất kỳ hành vi công vụ nào.
5. Chấm dứt hành nghề công chứng
Tại các nước theo luật Latinh, việc chấm dứt hành nghề công chứng có thể được tiến hành theo hai cách cơ bản: 
Cách 1: công chứng viên có thể giới thiệu người kế nhiệm với Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Để làm như vậy, họ phải soạn thảo hợp đồng sang nhượng với người kế nhiệm, họ nhận khoản tiền bồi thường do người thụ nhượng trả cho người chuyển nhượng khi Bộ trưởng đồng ý với việc chuyển nhượng (thủ tục này chỉ tồn tại ở CH Pháp).
Cách 2: công chứng viên có thể nộp đơn xin thôi việc lên Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Khi đó, Bộ trưởng sẽ bổ nhiệm người thay thế là người đã đăng ký vào danh sách những ứng viên có đủ tư cách cho vị trí công chứng viên (ví dụ như ở CHLB Đức).
6. Những trường hợp công chứng viên không được công chứng
Nhằm bảo đảm tính khách quan, công bằng và vô tư trong hoạt động nghề nghiệp, công chứng viên thường bị cấm công chứng những hợp đồng, giao dịch cho bản thân và người thân thích (phạm vi thân thích được quy định khác nhau tuỳ mỗi hệ thống pháp luật).
Tại CH Pháp, công chứng viên không được lập văn bản công chứng cho người ở hàng trực hệ, người trong phạm vi ba đời ở hàng bàng hệ hoặc những văn bản có lợi cho họ. công chứng viên là cổ đông của một công ty công chứng hoặc một hiệp hội công chứng viên không được lập những văn bản công chứng trong đó, một trong số họ có họ hàng thân thích ở những hàng bị cấm đoán trên đây là một trong các bên hoặc là người có quyền lợi. Hai công chứng viên là họ hàng thân thích bị cấm là thành viên cùng một công ty công chứng và không được cùng lập một văn bản công chứng.
Chặt chẽ hơn cả Pháp, pháp luật công chứng của CHLB Đức quy định phạm vi cấm rất rộng. Cụ thể là, công chứng viên không được thực hiện công chứng, nếu việc đó là của bản thân mình hoặc liên đới đến mình; của vợ/chồng hoặc đã là vợ/chồng hoặc là người đã đính hôn; của người nằm trong dòng trực hệ hoặc có quan hệ thông gia hoặc là cô, dì, chú, bác trong phạm vi ba đời hoặc của những người có quan hệ thông gia với những người này trong phạm vi hai đời; của người mà công chứng viên là đại diện theo pháp luật hoặc là thành viên của cơ quan có thẩm quyền đại diện; công việc do công chứng viên thực hiện theo uỷ quyền hoặc theo quan hệ công vụ hoặc tương tự quan hệ công vụ. Nếu việc công chứng liên quan đến nhiều người mà công chứng viên đã từng là người đại diện hoặc là người được uỷ quyền, thì phải được sự đồng ý bằng văn bản của những người đó. Thậm chí công chứng viên còn không được công chứng những giao dịch liên quan đến việc của cơ quan đại diện địa phương hoặc cơ quan đại diện tổ chức tôn giáo, tín ngưỡng mà công chứng viên là thành viên của cơ quan đó. Công chứng viên cũng không được môi giới các giao dịch tín dụng, nhà đất, bảo lãnh hoặc bảo đảm và bảo đảm những người làm việc cho mình cũng không tham gia các giao dịch đó.
7. Trách nhiệm nghề nghiệp và bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp công chứng viên
Trách nhiệm của công chứng viên xuất phát từ những nghĩa vụ của công chứng viên đối với khách hàng. Đó là nghĩa vụ thiết lập một văn bản đúng với quy định pháp luật cả về hình thức và nội dung. Công chứng viên phải tư vấn cho các bên về cách thức thực hiện thỏa thuận, tạo điều kiện để bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ và phải bảo đảm hiệu lực hoàn toàn của thỏa thuận giữa các bên. Nếu công chứng viên không thực hiện tốt ba nghĩa vụ nêu trên thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, bao gồm trách nhiệm hình sự, bị kỷ luật hoặc trách nhiệm dân sự
[9].
Lưu ý, pháp luật của CHLB Đức quy định Bộ Tư pháp có quyền từ chối bổ nhiệm nếu ứng cử viên không chứng minh được đã có bảo hiểm nghề nghiệp bắt buộc hoặc đã có chấp nhận tạm thời của cơ quan bảo hiểm về việc bảo hiểm trong thời gian trước khi có trả lời chính thức về việc chấp nhận hoặc không chấp nhận ký hợp đồng bảo hiểm.
a) Trách nhiệm hình sự của công chứng viên
Công chứng viên cũng là công dân, do vậy nếu phạm tội họ cũng bị truy tố trách nhiệm hình sự như mọi người, thậm chí pháp luật một số nước còn quy định hình phạt áp dụng cho công chứng viên sẽ nặng hơn so với công dân bình thường đối với cùng một hành vi, vì công chứng viên là người hiểu biết pháp luật rất rõ mà còn vi phạm, họ là nhân viên công quyền và vì công chứng viên là người bảo đảm các yêu cầu an toàn cho các giao dịch. Cụ thể ở CH Pháp, công chứng viên trước hết có thể phải chịu trách nhiệm hình sự với tư cách là một công dân Pháp. Cũng như mọi công dân khác, công chứng viên phải chịu trách nhiệm trước xã hội về những hành vi của mình. Nếu phạm tội, công chứng viên bị truy tố trách nhiệm hình sự như mọi người khác. Tuy nhiên, trách nhiệm hình sự của công chứng viên phải tuân thủ theo các nguyên tắc đặc biệt. Bộ luật Hình sự Pháp dành khá nhiều điều khoản để quy định về các loại hình phạt được áp dụng riêng đối với công chứng viên trong quá trình công chứng viên thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Các chế tài này thường nặng hơn so với hình phạt đối với công dân bình thường. Như vậy, tòa án có thẩm quyền xét xử công chứng viên cũng có thứ bậc cao hơn. Ví dụ như trong trường hợp công chứng viên có hành vi làm giả hoặc làm sai lệch nội dung văn bản thì có thể bị phạt tù đến 15 năm kèm theo phạt tiền đến 225.000 euro. Trong khi đó, nếu một người không phải là công chứng viên mà phạm vào tội này thì chỉ bị phạt tù đến 10 năm kèm theo phạt tiền đến 150.000 euro. Việc làm giả văn bản có thể là giả về mặt hình thức dưới ba dạng chủ yếu là: giả chữ ký; sửa chữa văn bản, chữ viết hoặc chữ ký; viết thêm chữ vào văn bản. Ngoài ra còn có hình thức làm giả khác là thay thế chủ thể của văn bản, tức là chủ động thay tên của một người khác vào tên của một trong các bên trong văn bản
[10].
b) Trách nhiệm kỷ luật của công chứng viên[A11] 
Với tư cách là nhân viên công quyền, công chứng viên nếu có hành vi vi phạm pháp luật, trái quy tắc nghề nghiệp, không trung thực hoặc làm tổn hại đến danh dự nghề nghiệp thì phải bị áp dụng chế tài kỷ luật, kể cả trường hợp vi phạm đó được thực hiện ngoài khuôn khổ nghề nghiệp.
Trách nhiệm kỷ luật khác với trách nhiệm dân sự vì với mọi sai phạm nghề nghiệp mà gây thiệt hại cho người khác thì công chứng viên đều phải chịu trách nhiệm, còn chế tài kỷ luật chỉ áp dụng nếu công chứng viên lặp đi lặp lại thiếu sót hoặc nhầm lẫn và thể hiện rõ họ không có khả năng hành nghề.
Trách nhiệm kỷ luật cũng khác với biện pháp truy cứu trách nhiệm hình sự, vì tội phạm và chế tài cần được quy định rõ trong một văn bản quy phạm pháp luật, còn biện pháp kỷ luật được áp dụng đối với các hành vi xâm phạm đến những nguyên tắc, quy tắc không do pháp luật xác định và quy định chế tài. Biện pháp kỷ luật áp dụng đối với tất cả các hành vi đi ngược lại phẩm cách và tính đúng đắn nghề nghiệp. Các cơ quan quản lý công chứng viên và các tòa án kỷ luật có toàn quyền đánh giá hành vi của công chứng viên để áp dụng chế tài phù hợp.
Biện pháp kỷ luật độc lập với biện pháp truy cứu trách nhiệm hình sự. Có những hành vi không cấu thành tội phạm hình sự nhưng vẫn có thể bị áp dụng biện pháp kỷ luật. Một công chứng viên bị truy cứu trách nhiệm hình sự vẫn có thể bị kỷ luật.
Các chế tài kỷ luật bao gồm: nhắc nhở, khiển trách thông thường, khiển trách trước hội đồng công chứng viên, cấm tái phạm, cấm hành nghề tạm thời và bãi miễn. Biện pháp nhắc nhở và khiển trách thông thường là những loại chế tài tinh thần, được thực hiện thông qua bản thân việc tuyên bố chúng. Những hình thức kỷ luật này được ghi vào hồ sơ của công chứng viên có sai phạm. Với hình thức khiển trách trước hội đồng, công chứng viên có sai phạm bị triệu tập ra trước hội đồng công chứng viên cấp tỉnh và bị chủ tịch hội đồng trực tiếp khiển trách. công chứng viên bị cấm hành nghề tạm thời không được thực hiện bất kỳ hoạt động nghề nghiệp nào trong thời gian bị kỷ luật; một công chứng viên khác sẽ được chỉ định thay thế người đó. Bãi miễn là hình thức tước bỏ chức danh công chứng viên, theo đó công chứng viên bị cấm hành nghề vĩnh viễn tại các văn phòng công chứng cũng như vĩnh viễn mất quyền ứng cử vào các tổ chức nghề nghiệp, họ không được quyền giới thiệu người khác thay thế mình; nếu họ là cộng tác viên - cổ đông của văn phòng công chứng thì phải chuyển nhượng lại phần vốn góp của mình trong thời hạn 6 tháng, kể từ ngày tuyên bố biện pháp kỷ luật.

c) Trách nhiệm dân sự của công chứng viên[A12] 
Trong trường hợp bất cẩn, công chứng viên phải chịu trách nhiệm về thiệt hại do mình gây ra. Trách nhiệm dân sự của công chứng viên gồm trách nhiệm dân sự cá nhân (được bảo đảm thực hiện bằng nguồn bảo hiểm và tài sản cá nhân) và bảo hiểm tập thể cho trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên.
Công chứng viên phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do mình gây ra trong quá trình hành nghề, bồi thường nếu vi phạm nghĩa vụ, bất kể lỗi cố ý hay vô ý (một số nước quy định nếu lỗi vô ý thì chỉ phải bồi thường nếu người bị hại không thể yêu cầu cách thức khác - Đức). Các quy định của BLDS về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của công chức vi phạm nghĩa vụ công vụ cũng được áp dụng và Nhà nước không chịu trách nhiệm thay công chứng viên.
Một số căn cứ để xét giảm, miễn trách nhiệm cho công chứng viên là trình độ của khách hàng, khách hàng có hay không được một người khác có chuyên môn giúp đỡ, mức độ tham gia của công chứng viên vào việc lập văn bản, công chứng viên có được khách hàng cung cấp đầy đủ những thông tin cần thiết hay không và những mâu thuẫn có thể có giữa pháp luật và thực tiễn giải thích của tòa án.
Công chứng viên tập sự vi phạm nghĩa vụ công vụ cũng phải bồi thường như công chứng viên; nếu công chứng viên hướng dẫn giao cho công chứng viên tập sự độc lập thực hiện một giao dịch thì hai bên phải liên đới chịu trách nhiệm và công chứng viên tập sự chịu trách nhiệm trước công chứng viên hướng dẫn. Quan hệ công vụ với Nhà nước của công chứng viên tập sự không làm nảy sinh trách nhiệm của Nhà nước. Toà án khu vực giải quyết các tranh chấp về bồi thường thiệt hại.
d) Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên
Để bảo đảm cho quyền lợi của người bị thiệt hại do hoạt động hành nghề của công chứng viên, việc đóng bảo hiểm nghề nghiệp cũng là một nghĩa vụ mà công chứng viên hầu hết các nước phải tuân thủ. Bảo hiểm nghề nghiệp phải duy trì bắt buộc trong suốt thời gian được bổ nhiệm.  
Bảo hiểm có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau mà phổ biến nhất là việc mua bảo hiểm của một công ty bảo hiểm chuyên nghiệp như tại Đức, Ba Lan... Hợp đồng bảo hiểm phải áp dụng cho tất cả các trường hợp công chứng viên phải chịu trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ và có mức chi trả tối thiểu. Người nhận bảo hiểm phải thông báo cho cơ quan tư pháp và phòng công chứng về mọi thay đổi của hợp đồng bảo hiểm ảnh hưởng đến phạm vi bảo hiểm.
Tại CHLB Đức, mọi công chứng viên phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp từ các công ty bảo hiểm. Bên cạnh đó, một quỹ đặc biệt được tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên ở từng khu vực thiết lập dưới sự giám sát của Bộ Tư pháp với chức năng chính là bồi thường cho những thiệt hại không thể khắc phục đầy đủ bởi bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, bổ sung thu nhập theo nghề của công chứng viên và chăm sóc công chứng viên lúc về già hoặc khó khăn hoặc mất sức lao động... và người thân thích của họ.
Tại CH Pháp, thay vì mua bảo hiểm của một công ty chuyên nghiệp, công chứng viên sẽ nộp một khoản tiền ký quỹ do Chính phủ ấn định nhằm bảo đảm thi hành những bản án chống lại họ trong quá trình hành nghề. Số tiền này phải được duy trì đủ trong suốt quá trình hành nghề. Số tiền này sẽ được trả lại, được tính lãi phù hợp với luật ký quỹ sau khi đã trừ đi các khoản chi trước đó.
Tương tự như vậy, tại Tây Ban Nha, công chứng viên tại Tây Ban Nha phải nộp một khoản bảo đảm (ký quỹ) trước khi họ bắt đầu hành nghề. Hội đồng công chứng tối cao thành lập Quỹ Bảo hiểm công chứng. Hàng năm, các công chứng viên phải đóng góp vào Quỹ này; Hội đồng dùng tiền từ Quỹ này để mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên, hướng dẫn tỷ lệ mức đóng góp phụ thuộc vào doanh thu của từng công chứng viên. Ngoài nghĩa vụ đóng góp vào Quỹ, công chứng viên có thể tự mua thêm bảo hiểm tại các công ty bảo hiểm khác.

đ) Việc thực hiện nghĩa vụ bồi thường của công chứng viên[A13] 
Như đã nêu ở phần trên, công chứng viên có trách nhiệm bồi thường cho mọi thiệt hại mà họ gây ra, dù là vô ý hay cố ý, có lỗi hay không có lỗi. Đây là trách nhiệm cá nhân, nghĩa là việc bồi thường sẽ được lấy từ tài sản của cá nhân công chứng viên và từ tiền bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp mà các công ty bảo hiểm có nghĩa vụ chi trả.
Để có thể bao quát được trách nhiệm này vì lợi ích của khách hàng, một số nước đã thiết lập chế độ trách nhiệm tập thể cho tất cả những vụ việc mà trong đó hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự không bao quát được hết rủi ro, nghĩa là trong trường hợp có hành vi cố ý sai trái. Cụ thể, trong những trường hợp có hành vi cố tình vi phạm từ công chứng viên dẫn đến thiệt hại vượt ra ngoài phạm vi bồi thường của cá nhân công chứng viên cũng như tổ chức bảo hiểm của họ, thì quỹ bảo hiểm tập thể của nghề công chứng sẽ chịu trách nhiệm bồi thường nhằm bảo đảm quyền lợi của khách hàng. Mục đích của trách nhiệm tập thể này là để củng cố lòng tin vào nghề công chứng: không ai phải chịu thiệt hại từ những hoạt động gian lận của công chứng viên, và tổ chức đại diện nghề công chứng phải đền bù cho khách hàng về những thiệt hại họ đã phải chịu do công chứng viên không trung thực.
II. VỀ TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG
1. Khái niệm, hình thức tổ chức hành nghề công chứng
Tổ chức hành nghề công chứng ở các quốc gia có tên gọi khác nhau theo quy định của pháp luật mỗi nước. Ở châu Âu có hai mô hình tổ chức hành nghề phổ biến, đó là văn phòng công chứng của một công chứng viên hoặc văn phòng công chứng của hai công chứng viên trở lên. Ví dụ: Ở CHLB Đức chỉ cho phép loại hình thứ nhất, còn ở CH Pháp luôn công nhận và cho phép tồn tại hai loại hình tổ chức hành nghề công chứng tự do, đó là: văn phòng công chứng có một công chứng viên (văn phòng công chứng cá nhân) và văn phòng công chứng nhiều cổ đông (có từ hai công chứng viên trở lên)
[11].
Về nguyên tắc, văn phòng công chứng không phải là doanh nghiệp, song thường hoạt động theo mô hình doanh nghiệp. Cụ thể, văn phòng công chứng một công chứng viên thường hoạt động theo mô hình doanh nghiệp tư nhân; công chứng viên - Trưởng văn phòng chịu trách nhiệm toàn bộ và vô hạn về hoạt động của tổ chức mình. Văn phòng công chứng nhiều cổ đông thì mỗi thành viên chỉ chịu trách nhiệm cá nhân về văn bản do mình thực hiện.
Một điều đặc biệt là trong khi tổ chức hành nghề công chứng tại hầu hết các nước là của tư nhân, thì ở CHLB Đức vẫn duy trì mô hình tổ chức hành nghề công chứng nhà nước.
2. Tổ chức và hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng
2.1. Thành lập hoặc xóa bỏ tổ chức hành nghề công chứng
Việc thành lập tổ chức hành nghề công chứng ở các nước thường phải đáp ứng các yêu cầu về số lượng công chứng viên (tối thiểu là một hoặc nhiều hơn, tuỳ quy định pháp luật mỗi nước); có trụ sở độc lập và rộng rãi; có kho lưu trữ và có khả năng tài chính cần thiết để tiến hành các hoạt động công chứng. Mỗi công chứng viên chỉ được lập hoặc tham gia thành lập một tổ chức hành nghề. Các tổ chức hành nghề công chứng phải tự thuê mướn nhân viên, tự lo trụ sở, phương tiện và thiết bị làm việc. Ví dụ: Tại CH Pháp, việc thành lập mới văn phòng công chứng phải được Bộ trưởng Bộ Tư pháp chấp thuận sau khi có ý kiến của Hội đồng công chứng tối cao. Tại CHLB Đức, việc thành lập mới văn phòng công chứng hoặc bổ nhiệm người đứng đầu văn phòng công chứng thường ưu tiên lựa chọn những công chứng viên có bề dày kinh nghiệm.
Tổ chức hành nghề công chứng chỉ bị xóa bỏ sau khi công chứng viên chết hoặc từ chức hoặc bị cách chức mà văn phòng công chứng không được chuyển cho một công chứng viên khác. Tại CH Pháp, pháp luật quy định việc di chuyển hoặc xóa bỏ văn phòng công chứng phải có ý kiến của Tòa án có thẩm quyền, Hội đồng công chứng cấp tỉnh và Hội đồng công chứng khu vực. Công chứng viên được lợi do việc thành lập, di chuyển hoặc xóa bỏ một văn phòng công chứng phải bồi thường cho đồng nghiệp. Mức bồi thường nếu không tự thỏa thuận được thì sẽ do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định sau khi có ý kiến của Hội đồng công chứng tối cao. Nếu một văn phòng công chứng trong phạm vi thẩm quyền của Tòa án cơ sở bị xoá bỏ, thì công chứng viên hành nghề trong phạm vi giáp ranh thuộc cùng Tòa thượng thẩm có thể cạnh tranh để lưu giữ và tiếp tục thực hiện các hồ sơ công chứng của văn phòng công chứng bị xóa bỏ.
2.2. Hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng  
a) Thời gian hoạt động
Tổ chức hành nghề công chứng nhìn chung hoạt động như một cơ quan hành chính nhà nước, giờ làm việc cũng theo giờ hành chính. Tuy nhiên, Hội đồng công chứng cơ sở có thể quyết định cho phép tổ chức hành nghề công chứng đóng cửa một ngày trong tuần và mở cửa bù vào ngày thứ bảy. Trong trường hợp khẩn cấp thì tổ chức hành nghề công chứng có thể mở cửa vào chủ nhật hoặc ngày lễ.
Hầu hết các nước theo luật Latinh không cho phép tổ chức hành nghề công chứng tạm ngừng hoạt động. Khi công chứng viên ốm đau, đi nghỉ thì Hiệp hội công chứng có trách nhiệm cử người khác (công chứng viên tập sự, công chứng viên nghỉ hưu, công chứng viên khác tại địa phương) đảm nhiệm thay, nhưng trách nhiệm vẫn thuộc về công chứng viên của tổ chức hành nghề công chứng đó. Trường hợp một công chứng viên bị đình chỉ hoặc tạm đình chỉ thì Nhà nước phải bảo đảm để tổ chức hành nghề công chứng đó vẫn hoạt động để bảo đảm hoạt động cung cấp dịch vụ diễn ra bình thường.  
[A14] 
b) Việc kiểm soát hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng[A15] 
Tại CH Pháp, các
tổ chức hành nghề [A16] công chứng có thể tạm thời bị cấm hoạt động hoặc bị giải tán. Các biện pháp kỷ luật này phải do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định. Quyết định kỷ luật của Hội đồng công chứng tối cao có thể được đưa ra trên cơ sở đề nghị của một phân tòa trong Tòa án tư pháp tối cao. Khi bị kỷ luật, các tổ chức hành nghề nói trên có thể khiếu nại lên Tòa án hành chính tối cao (tham chính viện).
Việc đình chỉ hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng không được vượt quá 6 tháng. Đối với trường hợp giải thể thì trong thời hạn tối đa 3 tháng kể từ ngày giải thể, phải thành lập tổ chức mới.
c) Chuyển nhượng tổ chức hành nghề công chứng
Trường hợp công chứng viên đang hành nghề mà vì lý do nào đó không hành nghề nữa thì không được bán (chuyển nhượng) tổ chức hành nghề công chứng cho công chứng viên khác. Tổ chức hành nghề công chứng trống công chứng viên này sẽ được liệt kê và công bố công khai để các ứng cử viên khác đăng ký và được lựa chọn để thay thế. Tên của công chứng viên cũ bị hủy bỏ (có nghĩa là không thể chuyển tên cho người khác). Các hồ sơ, tài liệu của công chứng viên cũ sẽ được giao công chứng viên được chỉ định tiếp tục xử lý hoặc quản lý. Hội đồng công chứng khu vực có thẩm quyền chỉ định người tiếp tục quản lý với sự đồng ý của khách hàng.
Chỉ có CH Pháp coi tổ chức hành nghề công chứng như một sản nghiệp và cho phép chuyển nhượng. Tuy nhiên, việc chuyển nhượng này không phải đương nhiên, kể cả giữa người cha và người con, cháu. Cụ thể là, chỉ sau khi thi đỗ làm công chứng viên thì người con hoặc người cháu mới được ưu tiên nhận chuyển nhượng tổ chức hành nghề công chứng của người cha.
Sau thời gian 5 năm, toàn bộ hồ sơ công chứng đã được xử lý xong được chuyển về Hội đồng công chứng khu vực và được coi là tài sản quốc gia.
III. TỔ CHỨC XÃ HỘI NGHỀ NGHIỆP CỦA CÔNG CHỨNG VIÊN
Pháp luật các nước khác nhau có những quy định khá thống nhất về vấn đề này. Cụ thể đây là tổ chức tự quản của các công chứng viên, có chức năng đại diện cho các công chứng viên, bảo đảm sự tuân thủ các quy tắc đạo đức nghề nghiệp, tham mưu, giám sát về những vấn đề kỷ luật và tổ chức các dịch vụ chung, các hoạt động mà thành viên của mình quan tâm trong lĩnh vực đào tạo, văn hóa, hỗ trợ và các nội dung khác tương tự. Hơn thế nữa, tổ chức xã hội nghề nghiệp cũng hợp tác chặt chẽ với cơ quan quản lý nhà nước trong việc bổ nhiệm và giám sát hoạt động của các công chứng viên. Theo đó, tổ chức này có chức năng đại diện cho các công chứng viên, đảm bảo sự tuân thủ các quy tắc đạo đức nghề nghiệp, tham mưu và giám sát về những vấn đề kỷ luật và tổ chức các dịch vụ chung và các hoạt động mà thành viên của mình quan tâm trong lĩnh vực đào tạo, văn hóa, hỗ trợ và các nội dung khác tương tự. Hơn thế nữa, tổ chức xã hội nghề nghiệp cũng hợp tác chặt chẽ với cơ quan quản lý Nhà nước trong việc bổ nhiệm và giám sát hoạt động của các công chứng viên
Tổ chức xã hội nghề nghiệp công chứng viên toàn quốc có chức năng đại diện cho toàn bộ các công chứng viên của quốc gia đó trong quá trình đưa ra các quyết định chính trị ở cấp quốc gia, tổ chức việc thông tin giữa các tổ chức xã hội nghề nghiệp địa phương; áp dụng các biện pháp phù hợp để thống nhất các hoạt động công chứng, tổ chức các hoạt động và dịch vụ chung mà các công chứng viên quan tâm; khuyến khích, bảo vệ và giám sát việc tổ chức và bảo toàn các hồ sơ lưu trữ; phối hợp với các cơ sở đào tạo nghề trong việc tổ chức các khóa đào tạo về hành nghề công chứng và tổ chức các buổi bảo vệ và thuyết trình về nghề công chứng.
Trong mối quan hệ với cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan này giám sát hoạt động của tổ chức xã hội nghề nghiệp công chứng ngang cấp theo nguyên tắc tôn trọng pháp luật và Điều lệ. Tổ chức xã hội nghề nghiệp báo cáo cơ quan này về hoạt động hàng năm và tình hình công chứng viên, công chứng viên tập sự.
1. Ở CH Pháp
[12], tổ chức Hiệp hội công chứng được điều chỉnh bởi Pháp lệnh ngày 2/11/1945 và Nghị định số 19/12/1945. Những văn bản này đến nay vẫn có hiệu lực. Hiện nay trên toàn lãnh thổ của Pháp có 80 Hội đồng công chứng Tỉnh và Liên tỉnh, 33 Hội đồng công chứng Vùng và 1 Hội đồng Công chứng tối cao.
1.1. Về Hội đồng công chứng tỉnh, Hội đồng công chứng liên tỉnh.
Mỗi tỉnh ở Pháp thành lập một Hội đồng công chứng Tỉnh trên cơ sở thẩm quyền lãnh thổ của Toà án. Mỗi địa hạt của Toà án sơ thẩm sẽ có một Hội đồng công chứng tỉnh. Hội đồng công chứng liên tỉnh thành lập gồm ít nhất từ 2 tỉnh trở lên, ví dụ như Hội đồng công chứng liên tỉnh de Savoie et de Haute – Savoie. Hội đồng công chứng tỉnh có nguồn tài chính do các Văn phòng công chứng đóng góp trên cơ sở doanh thu của mỗi Văn phòng công chứng.
Hội đồng này có những chức năng sau:
+ Xây dựng quy tắc hành nghề công chứng trong phạm vi tỉnh điều chỉnh về quan hệ giữa công chứng viên với khách hàng, quan hệ giữa các công chứng viên với nhau. Quy tắc này phải được Bộ trưởng Bộ Tư pháp để phê duyệt;
+ Giải quyết tất cả mâu thuẫn, tranh chấp về nghề nghiệp giữa các công chứng viên trong tỉnh bằng hình thức hoà giải, trong trường hợp hoà giải không thành, ra các quyết định kỷ luật, các quyết định này có hiệu lực thi hành ngay;
+ Xem xét giải quyết khiếu kiện công chứng viên trong quá trình hành nghề;
+ Kiểm tra sổ sách kế toán của văn phòng công chứng, về tổ chức và hoạt động của các văn phòng công chứng trong tỉnh;
+ Cho ý kiến tham vấn về các vấn đề kiện công chứng viên đòi bồi thường thiệt hại do lỗi của công chứng viên gây ra;
+ Lưu trữ các bản gốc của các văn phòng công chứng bị xoá bỏ;
+ Chuẩn bị nguồn ngân sách, theo dõi và yêu cầu thanh toán các khoản đóng góp của công chứng viên;
+ Tuyển và đào tạo nghề cho thư ký và nhân viên văn phòng công chứng, quản lý theo dõi điều kiện làm việc trong các văn phòng; các vấn đề về tiền lương và phụ cấp phù hợp với quy định cùa pháp luật.
Như vậy, Hội đồng công chứng Tỉnh và liên Tỉnh giữ vai trò quan trọng trong việc quản lý các công chứng viên trong phạm vi lãnh thổ của địa phương mình.
1.2. Về Hội đồng công chứng Vùng
Hội đồng công chứng Vùng được thành lập theo thẩm quyền lãnh thổ của Toà phúc thẩm bao gồm một số Hội đồng công chứng Tỉnh và Liên tỉnh. Hội đồng công chứng Vùng gồm các đại diện của Hội đồng công chứng Tỉnh. Số lượng đại diện của các hội đồng tỉnh tỉ lệ thuận với số lượng công chứng viên có trong từng Hội đồng Tỉnh. Mỗi Hội đồng Vùng phải có ít nhất là 7 Uỷ viên, Các Uỷ viên này có nhiệm kỳ là 4 năm.
Hội đồng công chứng Vùng là cơ quan đại diện của công chứng viên trước các cơ quan quyền lực chính trị và tư pháp ở địa phương có những chức năng sau:
+ Hội đồng công chứng Vùng hoà giải các mẫu thuẫn nghề nghiệp giữa các Hội đồng công chứng Tỉnh hoặc mâu thuẫn giữa các công chứng viên thuộc các Hội đồng công chứng Tỉnh khác nhau. Trong trường hợp hoà giải không thành, Hội đồng công chứng Vùng đưa ra các hình thức kỷ luật. Các quyết định của Hội đồng có hiệu lực thi hành ngay.
+ Cho ý kiến tham vấn đối với các Quy tắc hành nghề của các Hội đồng Tỉnh.
+ Tham gia vào Uỷ ban kiểm tra đầu vào các ứng viên hành nghề công chứng;
+ Tham gia vào Hội đồng quản trị Quỹ bảo hiểm hành nghề công chứng Vùng;
+ Tham gia vào Hội đồng công chứng tối cao;
+ Tham gia vào Uỷ ban kiểm tra kế toán các công chứng viên;
+ Lập ngân sách Hội đồng công chứng Vùng thông qua việc phân bổ các nghĩa vụ tài chính cho Hội đồng công chứng Tỉnh trên địa bàn quản lý;
+ Thi hành các quyết định của Hội đồng Công chứng tối cao.
1.3. Về Hội đồng Công chứng tối cao
Hội đồng công chứng tối cao bao gồm các uỷ viên do các Hội đồng công chứng Vùng bầu. Về nguyên tắc mỗi Hội đồng Vùng được bầu 01 uỷ viên. Tuy nhiên đối với những Hội đồng Vùng lớn như Hội đồng Paris có thể có 2 uỷ viên đại diện để tham gia Hội đồng công chứng tối cao. Các uỷ viên Hội đồng tối cao được bầu với nhiệm kỳ là 4 năm. Cứ 2 năm một nửa số thành viên của Hội đồng tối cao lại được bầu lại. Các Chủ tịch và phó Chủ tịch có nhiệm kỳ là 2 năm và có thể được bầu lại. Cũng như các Uỷ viên của Hội đồng công chứng Tỉnh và Hội đồng Vùng, hoạt động của các Uỷ viên Hội đồng tối cao mang tính tự nguyện không được trả lương. Tuy nhiên họ được hưởng phí công tác trong khuôn khổ kế hoạch các chuyến công tác đã được duyệt của Hội đồng Tối cao. Ngoại lệ, họ có thể được hưởng một khoản tiền trong khuôn khổ quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp trên cơ sở đề nghị của đa số thành viên Hội đồng công chứng tối cao.
Về chức năng, Hội đồng công chứng tối cao có nhiều chức năng quan trọng trong nội bộ nghề công chứng và đối với các cơ quan quyền lực Nhà nước. Là tổ chức duy nhất đại diện cho tất cả các công chứng viên tại Pháp Hội đồng công chứng tối cao đề ra những chính sách phát triển chung của nghề công chứng quản lý nghề công chứng và đưa ra ý kiến tham vấn cho Nghị viện, Chính phủ trong quá trình xây dựng văn bản pháp luật (Dự thảo luật, Văn bản pháp quy). Tham vấn cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp về các vấn đề liên quan đến nghề công chứng. Đưa ra chính sách chung về tổ chức các trường đào tạo công chứng viên, về nhân sự văn phòng công chứng, tuyển dụng công chứng viên, đào tạo đội ngũ thư ký và nhân viên các văn phòng công chứng; về công chứng viên tập sự, quy định điều kiện làm việc tại văn phòng công chứng, thực hiện bảo hiểm trách nhiệm dân sự nghề nghiệp công chứng cho các công chứng viên,  lương, thù lao khác của  công chứng viên theo quy định của pháp luật.
Hội đồng Tối cao xây dựng Quy tắc hành nghề công chứng quốc gia. Quy tắc này phải được Hội đồng toàn thể Hội đồng công chứng Tối cao thông qua và phải được Bộ trưởng Bộ Tư pháp phê duyệt. Các quy tắc hành nghề của Hội đồng Tỉnh không được trái với Quy tắc hành nghề quốc gia.
Hội đồng này cảnh báo và giải quyết các mâu thuẫn, bất đồng nghề nghiệp giữa các Hội đồng Tỉnh hoặc bất đồng giữa các công chứng viên thuộc các Hội đồng Vùng khác nhau. Khi có mẫu thuẫn xảy ra Hội đồng sẽ tiến hành hoà giải, trong trường hợp hoà giải không thành, Hội đồng đưa ra quyết định chính thức, quyết định này có hiệu lực thi hành ngay.
Nguồn tài chính của Hội đồng tối cao là do đóng góp của các Hội đồng công chứng Vùng trên toàn lãnh thổ Pháp theo sự phân bổ của Hội đồng này.
2. Ở CHLB Đức
Thông thường tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên có hai cấp hoặc ba cấp, đó là tổ chức xã hội nghề nghiệp ở địa phương (cấp tỉnh hoặc bang hoặc theo địa phận thẩm quyền của Toà án cấp cao của Bang) và tổ chức xã hội nghề nghiệp toàn quốc. Nếu như thành viên của tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên ở địa phương là các công chứng viên thì tổ chức XH-NN của công chứng viên ở trung ương là tập hợp của các tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên ở địa phương. Cả hai tổ chức này đều có tư cách pháp nhân, có con dấu và trụ sở riêng. Tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên gồm một cơ quan thường trực (Ban chủ nhiệm hoặc Ban chấp hành hoặc Hội đồng quản trị... tùy theo quy định của mỗi nước) và Hội nghị thành viên. Hội nghị thành viên là cơ quan quan trọng nhất, có quyền quyết định những vấn đề như phí, thông qua Điều lệ và các vấn đề lớn khác.
Tại CHLB Đức, có các hiệp hội luật sư - công chứng khu vực (mục 65, Đạo luật liên bang về công chứng) và hiệp hội luật sư - công chứng liên bang (mục 76, Đạo luật liên bang về công chứng) là các cơ quan tự quản lý về nghề công chứng. Các hiệp hội luật sư - công chứng khu vực gồm một cơ quan thường trực (Ban chủ nhiệm hoặc Ban chấp hành hoặc Hội đồng quản trị... tùy theo quy định của mỗi nước) và Hội nghị thành viên. Hội nghị thành viên là cơ quan quan trọng nhất, có quyền quyết định những vấn đề như phí, thông qua Điều lệ và các vấn đề lớn khác. CHLB Đức có 16 bang, mỗi bang có 1 - 2 hội, và có 1 Hội liên bang là đại diện của các bang. Hội liên bang tư vấn Chính phủ trong lập pháp, có thư viện chung, có cơ sở nghiên cứu gồm 30 công chứng viên hoạt động như cơ quan tư vấn cho Chính phủ liên bang.
Hiệp hội luật sư - công chứng tại Đức có nhiệm vụ xử lý vấn đề bồi dưỡng/đào tạo và hành vi ứng xử (quy tắc đạo đức hoặc kỷ luật). Bên cạnh các nội dung khác; Hiệp hội này còn có nhiệm vụ tổ chức các dịch vụ chung và các hoạt động mà thành viên của mình quan tâm trong lĩnh vực đào tạo, văn hóa, hỗ trợ và các nội dung khác tương tự. Họ đặc biệt có thẩm quyền giám sát tình hình kỷ luật các công chứng viên và thu xếp hoạt động thu hút sự chú ý của công chứng, kỷ luật và đạo đức nghề nghiệp.
Thông qua các hiệp hội luật sư - công chứng, hoạt động bồi dưỡng đào tạo được tiến hành. Thường thì Ủy ban Văn hóa của từng hội luật sư - công chứng sẽ thực hiện các hội thảo, các khóa đào tạo cấp cao hoặc các hội nghị cho đoàn viên của mình. Tại CHLB Đức tổ chức này còn chịu trách nhiệm đối với bảo hiểm nghề nghiệp: ký các hợp đồng bảo hiểm bổ sung trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm của công chứng viên chưa trả đủ cho vi phạm họ gây ra.
Tại CHLB Đức, các Hội công chứng còn có nhiệm vụ hỗ trợ Tòa án. Các khiếu nại liên quan đến công chứng viên được gửi thẳng đến Hội, Hội xem rồi quyết định xử lý hoặc gửi đến cơ quan có thẩm quyền (Bộ Tư pháp); có quyền giám sát và xử lý vi phạm đối với công chứng viên và cả công chứng viên tập sự theo quy định của pháp luật. Hiệp hội chỉ phạt tiền nhưng không thu hồi giấy phép mà có thể đề nghị Bộ Tư pháp thu hồi giấy phép.
Ở CHLB Đức, việc tham gia tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên là nguyên tắc bắt buộc. Theo đó mỗi công chứng viên đều là thành viên của tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên thuộc địa bàn mà mình cư trú. Hiệp hội công chứng của Đức được quy định trong Quy chế Liên bang. Đây là một tổ chức luật công. Pháp luật của CHLB Đức ghi rõ tất cả công chứng viên phải vào Hội công chứng. Các công chứng viên khi tham gia phải đóng một khoản phí bắt buộc.
III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ MỘT SỐ GỢI Ý CHÍNH SÁCH
1. Bài học kinh nghiệm
Kinh nghiệm tổ chức hoạt động công chứng và từ cách thức quản lý, phát triển tổ chức hành nghề công chứng cũng như kinh nghiệm ủy quyền quản lý tổ chức hoạt động công chứng cho hội nghề nghiệp của của một số nước cho chúng ta một số bài học và kinh nghiệm như:
Thứ nhất, CH Pháp và CHLB Đức đều xác định hoạt động công chứng là hoạt động làm chứng, tạo lập và lưu giữ chứng cứ, phục vụ cho hoạt động tố tụng, thông qua đó bảo vệ quyền lợi của Nhà nước và công dân - “công lý phòng ngừa”. Do vậy, hoạt động quản lý và “trao quyền” cho công chứng viên cần được khẳng định rõ ràng trong luật và cần giảm bớt các yếu tố hành chính tác động lên hoạt động công chứng.
Thứ hai, xác định rõ công chứng là một dịch vụ để đáp ứng nhu cầu của người dân và xã hội trong nền kinh tế thị trường. Do vậy, các quy định về công chứng cần hướng tới việc đáp ứng nhu cầu của người dân và đòi hỏi khách quan của nền kinh tế. Mặt khác, vì đây là hoạt động làm chứng, tạo lập và lưu giữ chứng cứ, phục vụ cho hoạt động tố tụng, do vậy, cần xác định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc hỗ trợ, tạo điều kiện, nhất là về xây dựng, duy trì, kết nối các cơ sở dữ liệu thông tin có liên quan để bảo đảm trách nhiệm “công chứng nội dung” của công chứng viên. Cũng như vậy, cần xác định rõ trách nhiệm của các tổ chức hành nghề công chứng trong việc tạo lập, lưu giữ cũng như quản lý các hồ sơ công chứng.
Thứ ba, cần xác định rằng công chứng viên do Nhà nước bổ nhiệm và được ủy nhiệm để cung cấp dịch vụ công, đó là để bảo đảm rằng mọi người dân đều có thể tiếp cận được dịch vụ, bảo đảm tính khách quan, bảo đảm chất lượng chuyên môn, bảo đảm trách nhiệm của người làm chứng trước đòi hỏi đặc thù của công việc đó chứ không phải là Nhà nước bổ nhiệm ra một chức danh để đem ý chí, đem quyền lực nhà nước áp đặt vào các giao dịch dân sự mà các bên tiến hành. Do vậy, cần tập trung thống nhất quản lý công chứng viên thông qua việc bổ nhiệm, ấn định số lượng các phòng công chứng, nơi đặt trụ sở phòng công chứng, quyết định việc thành lập phòng công chứng, việc chuyển nhượng, giải thể, sáp nhập phòng công chứng và miễn nhiệm công chứng viên. Đồng thời, thực hiện nghiêm việc kiểm tra, giám sát công chứng viên không chỉ ở giai đoạn bổ nhiệm mà còn trong suốt hoạt động nghề nghiệp.
Thứ tư, cần nhìn nhận rằng, công chứng là một công cụ để bảo đảm an toàn cho giao dịch dân sự, hỗ trợ cho hoạt động dân sự và kinh tế chứ không phải là tạo ra một rào cản đối với sự vận động của các mối quan hệ đó. Do đó, nếu đặt yếu tố an toàn lên hàng đầu nhưng lại tạo nên rào cản, hạn chế sự phát triển của các mối quan hệ kinh tế - xã hội thì công cụ này tất yếu sẽ bị loại bỏ bởi nó đi ngược lại với mục tiêu chung của toàn xã hội.
2. Một số gợi ý chính sách
Từ kinh nghiệm tổ chức, hoạt động công chứng và quản lý, phát triển tổ chức hành nghề công chứng tại một số nước, để phù hợp với mục tiêu phát triển nghề công chứng Việt Nam theo hướng ngày càng chuyên nghiệp, phục vụ tốt các nhu cầu của nhân dân và xã hội, là công cụ quan trọng bảo đảm an toàn cho các hợp đồng, giao dịch và phòng ngừa các tranh chấp, trở thành một thiết chế không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường, tiếp tục phát huy các thành quả đã đạt được trong quá trình xây dựng, phát triển nghề công chứng ở Việt Nam trong thời gian qua, trong thời gian tới, chúng ta cần:
2.1. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan quản lý nhà nước về công chứng (Chính phủ, Bộ Tư pháp, các bộ, ngành có liên quan, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh) cho phù hợp theo hướng phân cấp hợp lý, bảo đảm sự chặt chẽ, thống nhất trong công tác quản lý, cụ thể:
- Cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương tập trung thực hiện vai trò quản lý ở tầm vĩ mô
[13] (xây dựng khung pháp luật, quản lý, đào tạo đội ngũ công chứng viên, bổ nhiệm, miễn nhiệm công chứng viên, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật); qua đó, tạo hành lang pháp lý cho công chứng hoạt động chuyên nghiệp (hoạt động nghề nghiệp); đồng thời có các quy định phân cấp hợp lý cho địa phương để bảo đảm sự điều hành thống nhất trong toàn quốc… nhằm bớt gánh nặng cho cơ quan quản lý nhà nước, tạo điều kiện để cơ quan quản lý nhà nước thực hiện các công việc đúng với chức năng là quản lý phù hợp với tinh thần cải cách hành chính và cải cách tư pháp.
- Cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương là nơi trực tiếp quản lý nhà nước về công chứng tại địa phương có vai trò quyết định chất lượng quản lý công tác công chứng; có trách nhiệm bồi dưỡng, quản lý về đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ của công chứng viên thông qua việc quản lý đội ngũ công chứng viên, nhân viên, tổ chức hành nghề công chứng, thực hiện phát triển các tổ chức hành nghề công chứng theo quy định và tổ chức thi hành các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật về công chứng và liên quan đến công chứng.
- Xây dựng các hàng rào kỹ thuật trong công tác quản lý đối với hoạt động công chứng trong điều kiện mới, như: (1) đa dạng hóa nội dung kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng; (2) bổ nhiệm công chứng viên theo nhu cầu quản lý; (3) xử lý nghiêm và kịp thời các vi phạm của công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng... qua đó làm tăng hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng.
- Quy định rõ các loại hợp đồng, giao dịch liên quan đến bất động sản bắt buộc phải công chứng nhằm bảo đảm an toàn pháp lý cho các giao dịch, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập khu vực và quốc tế về công chứng. Đồng thời, nâng cao vị trí, vai trò của hoạt động công chứng trong xã hội; đề cao giá trị pháp lý của văn bản công chứng, xác định văn bản công chứng có giá trị thi hành để giảm tải công việc cho tòa án và tiết kiệm chi phí cho người dân, xã hội.
2.2. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công chứng mà trọng tâm là công tác chỉ đạo, điều hành.
- Cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương tập trung thực hiện vai trò quản lý ở tầm vĩ mô, chính sách lớn (quy tắc đạo đức hành nghề công chứng; hướng dẫn nghiệp vụ công chứng, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý tổ chức và hoạt động công chứng; giải quyết các khiếu nại tố cáo liên quan đến hành nghề công chứng…); đồng thời có các quy định phân cấp hợp lý cho địa phương để bảo đảm sự điều hành thống nhất trong toàn quốc.
- Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan quản lý nhà nước về công chứng (Chính phủ, Bộ Tư pháp, các bộ, ngành có liên quan, uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, sở Tư pháp) cho phù hợp theo hướng phân cấp hợp lý bảo đảm sự chặt chẽ, thống nhất trong công tác quản lý. Đồng thời với việc phát huy mạnh mẽ vai trò tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp công chứng viên trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công chứng viên và quản lý hoạt động công chứng, giám sát việc tuân theo đạo đức nghề nghiệp, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho công chứng viên.
- Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra về tình hình tổ chức, hoạt động công chứng, kịp thời tháo gỡ vướng mắc, khó khăn, phát hiện, chấn chỉnh những hành vi vi phạm pháp luật, quy tắc đạo đức hành nghề công chứng. Để làm được điều này, cần sớm kiện toàn đơn vị chuyên môn giúp việc đủ mạnh (đủ nhân lực, vật lực và các điều kiện bảo đảm khác) để có thể hoàn thành tốt công tác thanh tra, kiểm tra.
- Sớm xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu về công chứng thống nhất trong phạm vi toàn quốc (cơ sở dữ liệu thông tin ngăn chặn, thông tin về hợp đồng, giao dịch liên quan đến bất động sản đã công chứng, cơ sở dữ liệu thông tin chung về bất động sản) và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động công chứng đáp ứng yêu cầu quản lý, điều hành, giải quyết các công việc liên quan đến hoạt động công chứng trong giai đoạn mới (công chứng trực tuyến/công chứng online; lưu trữ văn bản công chứng điện tử...).
2.3. Đổi mới công tác đào tạo nghề công chứng, bồi dưỡng nghề công chứng, bảo đảm cập nhật được thường xuyên và hệ thống đối với những thay đổi của pháp luật, cũng như các phát sinh từ thực tiễn, nhất là tăng cường ứng dụng công nghệ, các công cụ, phương tiện hiện đại trong tổ chức, hoạt động công chứng.  
2.4. Phân công, phân cấp và xác định rõ trách nhiệm của Hiệp hội công chứng viên Việt Nam và hội công chứng viên cấp tỉnh trong việc tham gia quản lý hoạt động công chứng. Kết hợp giữa quản lý nhà nước và tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp của các công chứng viên, qua đó bảo đảm nguyên tắc quản lý về mặt nhà nước, nâng cao tính độc lập và tự chịu trách nhiệm trong hoạt động nghề nghiệp của công chứng viên. Phát triển, hoàn thiện tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên chính là hoạt động quan trọng để hỗ trợ cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý về tổ chức và hoạt động công chứng.
          Dương Bạch Long - Viện Khoa học pháp lý
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  1. Bundesnotarordnung (BNotO) (Bộ luật Công chứng Liên bang) và Beurkundungsgesetz (BeurkG) (Đạo luật Công chứng). Nguồn: https://guides.library.harvard.edu/c.php?g= 310823&p=2079295#:~:text=A%20German%20notary%20provides%20advice,types%20of%20notaries%20in%20Germany.
  2. Trang web chính thức của Công chứng Pháp https://www-notaires-fr.translate.goog/en/ notaire/role-notaire-and-his-principal-activities/role-notaire?_x_tr_sl=en&_x_tr_tl=vi&_x_tr_ hl=vi&_x_tr_pto=nui,sc,elem
  3. https://guides.library.harvard.edu/c.php?g=310823&p=2079295#:~:text=A%20German %20notary%20provides%20advice,types%20of%20notaries%20in%20Germany.
  4. https://thoibaovietduc.com/tim-hieu-nghe-cong-chung-vien-tai-duc/
  5. https://www.berton-associes.us/blog/french-german-experts/french-notary/
  6. https://thoibaovietduc.com/tim-hieu-nghe-cong-chung-vien-tai-duc/
  7. Đặng Văn Khanh (2000), Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xác định phạm vi, nội dung hành vi công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sỹ, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, tr. 13.
  8. https://www.notaires.fr/en/notaire/role-notaire-and-his-principal-activities/role-notaire
  9. https://www.legifrance.gouv.fr/affichCodeArticle.do?idArticle=LEGIARTI000006438527 &cidTexte=LEGITEXT000006070721
  10. https://www.notaires.fr/en/notaire/notaires-fees
  11. Tài liệu tại Lớp bồi dưỡng công chứng viên, Nhà Pháp luật Việt - Pháp, thành phố Hồ Chí Minh, ngày 27/11/2010. Nguồn: https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/wp-content/uploads/2020/06/Tr%C3%A1ch-nhi%E1%BB%87m-c%E1%BB%A7a-công chứng viên.fr_.pdf
  12. Tài liệu Lớp bồi dưỡng Công chứng viên, Nhà Pháp luật Việt - Pháp, thành phố Hồ Chí Minh, ngày 28 - 29/9/2006.
  13. Nguyễn Hoàng Việt (2014), Quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng (Luật văn Thạc sỹ Luật học).
  14. Nguyễn Quang Minh (2009), Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn (Luận văn Thạc sỹ Luật học).
  15. Tuấn Đạo Thanh (2008), Nghiên cứu pháp luật về công chứng một số nước trên thế giới nhằm góp phần xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật về công chứng ở Việt Nam hiện nay (Luận án tiến sỹ Luật học).
  16. Nguyễn Văn Hoạt (2004), Về mô hình tổ chức và hoạt động công chứng trong điều kiện cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay, Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 7/2004.
  17. Nguyễn Thị Thanh Mai, Xã hội hóa hoạt động công chứng, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 8/2015.
  18. Đỗ Hoàng Yến, Xây dựng dự án luật công chứng đáp ứng yêu cầu công cuộc cải cách tư pháp, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề 5/2014).
  19. Báo cáo tổng thuật pháp luật về công chứng (Tài liệu trình kèm Hồ sơ dự án luật Công chứng - Bộ Tư pháp, tháng 9/2013.

[1] ThS. Dương Bạch Long, CN. Ngô Xuân Kỳ - Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp.
[2] Xem thêm “Về công chứng và công chứng viên ở Cộng hòa Pháp, Công hòa Liên bang Đức”. https://khpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=162
[3] Xem thêm Báo cáo tổng thuật pháp luật về công chứng (Tài liệu trình kèm Hồ sơ dự án luật Công chứng - Bộ Tư pháp, tháng 9/2013).
[4] Chú ý: cả CH Pháp và CHLB Đức đều quy định về thẩm quyền công chứng theo địa hạt (mỗi công chứng viên được phân công phụ trách một quận/huyện nhất định hoặc nhiều công chứng viên hành nghề trên cùng một địa bàn quận/huyện).
[6] Như trên.
[9] Xem cụ thể: Tài liệu tại Lớp bồi dưỡng công chứng viên, Nhà Pháp luật Việt - Pháp, thành phố Hồ Chí Minh, ngày 27/11/2010.  Nguồn: https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/wp-content/uploads/2020/06/Tr%C3%A1ch-nhi%E1%BB%87m-c%E1%BB%A7a-CCV.fr_.pdf
[10] Xem thêm: Tài liệu tại Lớp bồi dưỡng công chứng viên, Nhà Pháp luật Việt - Pháp, thành phố Hồ Chí Minh, ngày 27/11/2010.  Nguồn: https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/wp-content/uploads/2020/06/Tr%C3%A1ch-nhi%E1%BB%87m-c%E1%BB%A7a-CCV.fr_.pdf
[11] Đặng Văn Khanh (2000), Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xác định phạm vi, nội dung hành vi công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sỹ, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, tr. 13.  
[12] Nội dung này tham khảo nguồn: Tài liệu Lớp bồi dưỡng Công chứng viên. Nhà Pháp luật Việt – Pháp, TP.HCM – Ngày 28 – 29/9/2006
[13] Hiện nay, thẩm quyền bổ nhiệm CCV được giao cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp còn thẩm quyền quyết định thành lập phòng công chứng, cho phép thành lập VPCC, đăng ký hoạt động VPCC do địa phương (ủy ban nhân dân cấp tỉnh, sở tư pháp thực hiện). Qua thực tiễn triển khai cho thấy, việc phân cấp này chưa thực sự hợp lý, phần nào tạo ra sự thiếu gắn kết giữa việc phát triển đội ngũ CCV và việc phát triển TCHNCC. Theo kinh nghiệm của một số nước theo trường phái công chứng Latinh tiêu biểu như Pháp, Đức…, việc bổ nhiệm CCV và cho phép thành lập TCHNCC đều tập trung vào một đầu mối là Bộ Tư pháp. Trên cơ sở một bản đồ quy hoạch các TCHNCC được hình thành dựa trên khảo sát và đánh giá nhu cầu công chứng, Bộ Tư pháp chỉ bổ nhiệm một người có đủ tiêu chuẩn làm CCV khi người đó đã xác định được nơi sẽ hành nghề công chứng thông qua việc được giới thiệu vào vị trí (địa điểm) hành nghề hoặc được sự chấp thuận của một TCHNCC đang hoạt động. Cơ quan quản lý tư pháp ở địa phương chỉ thực hiện chức năng tương tự như đăng ký hoạt động, thay đổi nội dung đăng ký hoạt động của TCHNCC. Sự chặt chẽ, thống nhất trong quy trình bổ nhiệm CCV và hành nghề công chứng này tạo ra sự ổn định, bền vững của hoạt động công chứng với tính chất là một hoạt động dịch vụ công, hạn chế tình trạng CCV được bổ nhiệm nhưng không hành nghề hoặc số lượng TCHNCC phát triển không phù hợp với nhu cầu dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh.