Người chưa thành niên phạm tội là một hiện tượng, một thực tế tồn tại ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Mỗi quốc gia đều có những chế tài (hình phạt) giải quyết vấn đề của người chưa thành niên phạm tội ở nhiều góc độ khác nhau, cách thức khác nhau, tùy thuộc vào những điều kiện, tập quán và pháp luật mà quốc gia đó quy định.
1. Khái niệm người chưa thành niên
Người chưa thành niên là những người chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ về nhân cách, chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân. Pháp luật ở mỗi quốc gia quy định độ tuổi cụ thể của người chưa thành niên. Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên Hợp quốc thông qua ngày 20/11/1989 có ghi: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dước 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn”.
Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật quốc tế liên quan đến người chưa thành niên như: Công ước về Quyền trẻ em (United Nations Convention on the Rights of the Child) được Đại hội đồng Liên Hợp quốc thông qua ngày 20/11/1989; Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về áp dụng pháp luật với người chưa thành niên (United Nations Standard Minimum Rules for the Administration of Juvenile Justice /Beijing Rules) ngày 29/11/1985; Hướng dẫn của Liên Hợp quốc về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên (United Nations Guidelines for the Prevention of Juvenile delinquency/ Riyadh Guidelines) ngày 14/12/1990. Theo quan niệm quốc tế thì trẻ em (Child) là người dưới 18 tuổi, người chưa thành niên (Juvenile) là người từ 15 đến 18 tuổi, thanh niên (Youth) là người từ 15 đến 24 tuổi, người trẻ tuổi (Young persons) bao gồm trẻ em, người chưa thành niên và thanh niên.
Trong quá trình thực thi Công ước quốc tế về quyền trẻ em, mỗi quốc gia cần viện dẫn đến các Nghị định thư không bắt buộc bổ sung cho Công ước quốc tế về quyền trẻ em (1); các bình luận chung của Ủy ban Quyền trẻ em (2); và trong một số trường hợp cả những bộ quy tắc đã tồn tại trước khi Công ước được ban hành để có được những giải thích, hướng dẫn cụ thể và chi tiết trong từng lĩnh vực. Ví dụ, trong lĩnh vực Tư pháp người chưa thành niên thì luôn phải viện dẫn đến Bộ quy tắc Tiêu chuẩn tối thiểu về quản lý tư pháp người chưa thành niên (thường gọi là Quy tắc Bắc Kinh) được ban hành bởi Đại hội đồng LHQ năm 1985(3); Các hướng dẫn về Phòng ngừa các vi phạm pháp luật của người chưa thành niên (Quy tắc Riyadh) (4); Bộ quy tắc về Bảo vệ trẻ em bị tước tự do (Quy tắc Havana) được Đại hội đồng LHQ ban hành năm 1990 (5); Hướng dẫn về làm việc với trẻ em trong hệ thống tư pháp hình sự, được Hội đồng Kinh tế - Xã hội của LHQ thông qua năm 1997 (Hướng dẫn Viên) (7); và Bình luận chung số 10(2007) về Quyền của trẻ em trong lĩnh vực tư pháp người chưa thành niên của Ủy ban Quyền trẻ em ban hành năm 2007 (8).
Để chỉ định những đối tượng được bảo vệ theo Công ước quốc tế về quyền trẻ em, các văn kiện pháp luật quốc tế sử dụng thuật ngữ không hoàn toàn thống nhất. Bên cạnh thuật ngữ “trẻ em” (child/children) được sử dụng trong Công ước và ba Nghị định thư không bắt buộc của Công ước quốc tế về quyền trẻ em, có các thuật ngữ khác-gồm: người chưa thành niên (juvenile) (1), thiếu niên (adolescence)(2), người trẻ tuổi (youth) (3) - được sử dụng nhiều trong các Bộ quy tắc, các Hướng dẫn và Bình luận chung. Dù có sự khác biệt như vậy, nhưng các văn kiện này đều thống nhất mục tiêu chung là để bảo vệ những người dưới 18 tuổi hay những người chưa đạt đến tuổi trưởng thành - trẻ em.
Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất trong Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, Bộ Luật Dân sự năm 2015; Bộ luật Lao động năm 2012, Luật Trẻ em năm 2016, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật và một số văn bản pháp luật khác có liên quan. Tất cả các văn bản pháp luật trên đều quy định tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi và quy định riêng những chế định pháp luật đối với người chưa thành niên trong từng lĩnh vực pháp luật cụ thể; bên cạnh đó, khái niệm người chưa thành niên khác với khái niệm trẻ em, theo Điều 1 Luật Trẻ em năm 2016 thì “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”; khoản 1 Điều 21 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì “Người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi”.
Do vậy, theo quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia thì khái niệm người chưa thành niên đều quy định giống nhau: Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên.
2. Quyền của người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật quốc tế
Một hoạt động mà các nước trên toàn cầu đang nỗ lực thực hiện là tìm mọi cách bảo đảm hệ thống tư pháp người chưa thành niên tuân thủ theo đúng luật quốc tế về quyền con người. Kể từ năm 1989, với tốc độ ngày càng cao, các nước trên thế giới đã và đang đưa những nguyên tắc quốc tế vào các luật và chính sách quốc gia. Đã có nhiều văn bản quốc tế về quyền con người của trẻ em, của người chưa thành niên ra đời trong hơn nửa thế kỷ qua. Đồng thời, việc tăng cường bảo vệ các quyền của trẻ em cũng là một khía cạnh quan trọng trong hoạt động của các cơ quan và chương trình của Liên Hợp Quốc (LHQ). Trong các văn bản quốc tế và các chương trình của LHQ về vấn đề trẻ em sử dụng đồng thời cả hai khái niệm trẻ em và người chưa thành niên. Như ở trên đã nêu, Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em xác định rõ: "Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn". Trong một số văn bản, khái niệm trẻ em được gọi là người chưa thành niên hoặc thanh, thiếu niên. Tuy nhiên, trong quan hệ với pháp luật và thực thi pháp luật, trẻ em thường được gọi là người chưa thành niên:
Một là, quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của LHQ về việc áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên (còn gọi là Quy tắc Bắc Kinh), được Đại hội đồng LHQ thông qua ngày 29/11/1985 nêu rõ: "Người chưa thành niên là trẻ em hay người ít tuổi tuỳ theo từng hệ thống pháp luật có thể bị xét xử vì phạm pháp theo một phương thức khác với việc xét xử người lớn" (Quy tắc số 2.2 mục a).
Hai là, quy tắc tối thiểu phổ biến của LHQ về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do thông qua ngày 14/12/1990 nêu cụ thể: "Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Giới hạn tuổi dưới mức này cần phải được pháp luật xác định và không được tước quyền tự do của người chưa thành niên" (Quy tắc 2.1 mục a).
Như vậy, có thể thấy rằng, khi đưa ra khái niệm về trẻ em hay người chưa thành niên, trong pháp luật quốc tế không dựa vào đặc điểm tâm - sinh lý hay sự phát triển thể chất, tinh thần... mà trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua việc xác định độ tuổi. Kể cả khái niệm trẻ em và khái niệm người chưa thành niên đều giới hạn là dưới 18 tuổi, đồng thời đưa ra khả năng mở cho các quốc gia tuỳ điều kiện kinh tế - xã hội, văn hoá, truyền thống của quốc gia mình có thể quy định độ tuổi đó sớm hơn. Nội dung các quy tắc trên có tính đến sự đa dạng và cơ cấu pháp luật của các quốc gia, phản ánh mục đích và tinh thần của tư pháp người chưa thành niên, đề ra những nguyên tắc mong muốn và thông lệ đối với việc quản lý những người chưa thành niên vi phạm pháp luật.
Quy tắc Bắc Kinh chỉ ra những mục đích của việc áp dụng pháp luật với người chưa thành niên và đảm bảo rằng bất cứ sự xử lý nào đối với người chưa thành niên phạm tội phải luôn xem xét tới điều kiện hoàn cảnh của người chưa thành niên và mức độ của tội phạm. Trong quy tắc này, bao gồm những quy định cụ thể điều chỉnh nhiều giai đoạn khác nhau của việc áp dụng tư pháp với người chưa thành niên. Các quy định này nhấn mạnh rằng việc đưa các em vào cơ sở quản lý, giáo dục tập trung chỉ được coi là biện pháp cuối cùng, chỉ nên áp dụng trong một thời gian tối thiểu, cần thiết. Liên quan đến thủ tục xét xử quy tắc này cho rằng, một trẻ em bị quy là phạm tội được hưởng quyền xử lý đúng theo luật định và quyền được hưởng sự đối xử đặc biệt, kể cả sự cần thiết phải "tiến hành tố tụng trong một bầu không khí hiểu biết", tầm quan trọng về sự có mặt của cha mẹ, tôn trọng những điều riêng tư của các em trong tố tụng cũng như hồ sơ và yêu cầu phải có những người được đào tạo chuyên sâu tham gia tố tụng để giải quyết vụ án.
Quy tắc của LHQ về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do quy định các nguyên tắc cụ thể áp dụng đối với tất cả các hình thức giam giữ ở bất cứ cơ sở giam giữ nào. Tách riêng những người chưa thành niên ra khỏi người lớn trong cùng các cơ sở giam giữ và phân loại các em là một yêu cầu cần thiết được nhắc đến trong quy tắc này. Đồng thời nhấn mạnh việc bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do không chỉ xác định các quyền của họ mà còn quy định cách đối xử khi các em phạm tội. Sự tôn trọng các quyền của người chưa thành niên cũng là một bộ phận khăng khít của công tác quản lý, giáo dục người phạm tội là người chưa thành niên. Các quy định đặc biệt nhấn mạnh sự liên hệ giữa người chưa thành niên với gia đình, tôn trọng nhân phẩm của các em và quyền người chưa thành niên được đối xử công bằng.
Các quy tắc và nguyên tắc nêu trên có chứa đựng một điều khoản cho thấy rằng, các quy tắc và các nguyên tắc đó được thực hiện dựa trên những điều kiện kinh tế - xã hội và văn hoá hiện có của mỗi quốc gia. Các tiêu chuẩn nêu ra là rất linh hoạt, nếu được áp dụng một cách thiện chí theo cách thức phù hợp nhất với hoàn cảnh kinh tế - xã hội, văn hoá của từng quốc gia, chúng sẽ là một công cụ hữu hiệu giúp cải thiện cuộc sống của số lượng ngày càng tăng người chưa thành niên bị đẩy tới chỗ vi phạm pháp luật và chống lại xã hội.
Trên cơ sở những văn bản pháp lý quốc tế nêu trên, có thể khái quát về các quyền cơ bản của người chưa thành niên phạm tội như sau:
Thứ nhất, quyền cơ bản của người chưa thành niên được luật pháp quốc tế quy định thông qua các nguyên tắc sau: (1) Trong bất kỳ hoàn cảnh, điều kiện nào, sự an toàn của người chưa thành niên phải được đặt lên hàng đầu; (2) Không bị phân biệt đối xử, tất cả các em đều được đối xử công bằng, không thiên vị, bất kể giới tính, độ tuổi, dân tộc, tôn giáo…; (3) Người chưa thành niên phải được đối xử một cách lịch sự, tôn trọng phẩm giá và chuyên nghiệp; (4) Trước khi xét xử, người chưa thành niên luôn luôn được suy đoán vô tội; (4) Người chưa thành niên được đối xử theo những quy định đã nêu trong hệ thống pháp luật của quốc gia;
Thứ hai, quyền cơ bản của người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra: (1) Tất cả những tiếp xúc giữa cán bộ thực thi pháp luật và người chưa thành niên phải mang tính thân thiện, nhạy cảm, phải diễn ra trong một môi trường phù hợp, hỗ trợ và đáp ứng những nhu cầu đặc biệt của lứa tuổi; (2)Trong quá trình giao tiếp với người chưa thành niên, phải sử dụng ngôn ngữ phù hợp và dễ hiểu với các em; (3) Cấm các biện pháp điều tra tùy tiện, trong mọi trường hợp, quyền riêng tư của các em phải được bảo vệ; (4) Những thông tin cá nhân và mang tính nhạy cảm liên quan đến người chưa thành niên phải được xử lý cẩn thận và được bảo đảm bí mật; (5) Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, cán bộ thực thi pháp luật cũng phải tôn trọng và bảo vệ phẩm giá của con người, nêu cao các nguyên tắc nhân quyền cho tất cả mọi người, trong đó có người chưa thành niên; (6) Người chưa thành niên có quyền ghi lại một cách chi tiết, đầy đủ tất cả những lời khai khi cán bộ thực thi pháp luật lấy lời khai hoặc hỏi cung; (7) Người chưa thành niên có quyền được bảo vệ khỏi vũ lực và các hình thức lạm dụng của các cơ quan công quyền trong quá trình điều tra; (8) Trong bất kỳ trường hợp nào, cán bộ điều tra đều phải tôn trọng và tuân thủ pháp luật; (9) Cần tránh những trì hoãn không cần thiết khi xử lý các vụ liên quan đến người chưa thành niên phạm tội; (10) Việc giam giữ người chưa thành niên phạm tội cần phải cân nhắc kỹ lưỡng nếu mục đích chỉ là để phục vụ công việc của cán bộ điều tra; (11) Các cán bộ thực thi pháp luật cần sử dụng quyền tự quyết trong tất cả các giai đoạn của quá trình tố tụng trong đó có giai đoạn điều tra; (12) Người chưa thành niên có quyền trình bày quan điểm của mình và những quan điểm này phải được tôn trọng, xem xét một cách thận trọng; (13) Người chưa thành niên có quyền mong muốn rằng các hoạt động điều tra sẽ được tiến hành theo đúng luật pháp và với lý do thích hợp.
Thứ ba, quyền cơ bản của người chưa thành niên khi bị bắt giữ hoặc bị giam giữ: (1) Mọi người, trong đó có người chưa thành niên đều có quyền được tự do và được an toàn, trong đó có tự do đi lại; (2) Người chưa thành niên có quyền không bị bắt giữ và bị giam giữ tùy tiện; (3) Người chưa thành niên bị bắt giữ cần phải được thông báo vào thời điểm bị bắt và thông báo về lý do bắt giữ; (4) Không người chưa thành niên nào có thể bị tước quyền tự do trừ những trường hợp phù hợp với những thủ tục đã quy định trong pháp luật của quốc gia; (5) Khi bị giam giữ, người chưa thành niên phải được giam riêng với người đã thành niên; (6) Những người chưa thành niên bị giam giữ phải được gặp mặt và có liên lạc với gia đình mình; (7) Người chưa thành niên có quyền được thông tin kịp thời về tội danh mà các em bị cáo buộc; (8) Giam giữ chỉ được sử dụng như là biện pháp cuối cùng, giam giữ trong thời gian chờ xét xử chỉ được coi là ngoại lệ chứ không được coi là nguyên tắc; (9) Người chưa thành niên có quyền được thông báo kịp thời, có sự hiện diện và tham gia của cha mẹ (hoặc người lớn giám hộ) khi bị giam giữ hoặc bị bắt giữ, trong các lần lấy lời khai hoặc hỏi cung; (10) Cung cấp tham vấn pháp lý một cách kịp thời cho tất cả những người bị giam giữ hoặc bị bắt giữ; (11) Người chưa thành niên có quyền giữ im lặng và không bị buộc tội trong quá trình lấy lời khai và hỏi cung; (12) Người chưa thành niên có quyền được chăm sóc y tế kịp thời khi cần thiết, có bác sĩ nữ chăm sóc cho người chưa thành niên nữ; (13) Khi bị giam giữ, người chưa thành niên phải được chăm sóc, bảo vệ và hỗ trợ cần thiết, tùy vào độ tuổi, giới tính và tính cách của các em; (14) Khi bị giam giữ, quyền riêng tư của người chưa thành niên phải được tôn trọng và bảo mật; (15) Việc sử dụng vũ lực hoặc các biện pháp giới hạn khác đối với người chưa thành niên chỉ là ngoại lệ, chỉ được sử dụng khi tất cả các biện pháp kiểm soát khác đã thất bại. Nếu có sử dụng thì chỉ trong khoảng thời gian ngắn nhất.
Thứ tư, quyền của người chưa thành niên khi bị xét xử và tuyên án: (1) Giam giữ chỉ là biện pháp cuối cùng và nếu có chỉ áp dụng trong một khoảng thời gian ngắn nhất; (2) Người chưa thành niên có quyền giữ im lặng và quyền được chuyển đến những dịch vụ hỗ trợ phù hợp; (3) Người chưa thành niên có quyền được bảo vệ khỏi sự đối xử và trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo, của các cơ quan chính quyền và các cơ quan khác; (4) Người chưa thành niên có quyền mong muốn rằng quyền tự quyết sẽ được sử dụng khi kết án, trong đó có các biện pháp thay thế; (5) Áp dụng xử lý theo hướng không giam giữ để tránh các thủ tục xét xử chính thức và chuyển sang các chương trình hoà nhập cộng đồng phù hợp.
Thứ năm, quyền của người chưa thành niên khi bị tước quyền tự do: (1) Người chưa thành niên bị tước quyền tự do có quyền sử dụng những phương tiện và dịch vụ đáp ứng các yêu cầu về sức khỏe và phẩm giá con người; (2) Người chưa thành niên có quyền được cung cấp đầy đủ thực phẩm, nước uống sạch, chỗ ngủ sạch sẽ, quần áo phù hợp với thời tiết cũng như việc phòng bệnh và chữa bệnh; (3) Người chưa thành niên được tiếp cận với các chương trình, hoạt động vui chơi giải trí có ý nghĩa cho việc phục hồi, tái hòa nhập và phát triển của họ; (4) Người chưa thành niên có quyền hưởng sự giáo dục và được đào tạo nghề để chuẩn bị cho mình có việc làm trong tương lai; (5) Cán bộ ở các cơ sở quản lý giáo dục tập trung cần được đào tạo về việc đối xử với người chưa thành niên sao cho phù hợp. Nghiêm cấm việc sử dụng vũ lực hoặc các hình thức trừng phạt, truy bức, nhục hình; đồng thời có cơ chế bảo vệ người chưa thành niên tránh khỏi mọi hình thức lạm dụng hoặc bóc lột; (6) Người chưa thành niên cần được hỗ trợ khi các em trở về với gia đình và xã hội, được ưu tiên đi học và tìm việc làm sau khi chấp hành xong biện pháp giáo dục. Nên áp dụng việc giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại tại các cơ sở quản lý giáo dục tập trung, hỗ trợ và giám sát người chưa thành niên ở cộng đồng sau khi chấp hành xong biện pháp này. Chính quyền các cấp phải cung cấp và đảm bảo các dịch vụ hỗ trợ cho người chưa thành niên khi các em trở về cộng đồng và giảm bớt các định kiến đối với các em. Đại diện của các cơ quan cung cấp các dịch vụ này cần được tiếp cận với người chưa thành niên khi các em bị giam giữ nhằm hỗ trợ các em khi trở về cộng đồng.
Dựa trên những quy định của luật pháp quốc tế về người chưa thành niên, các quốc gia trên thế giới cũng đã đưa ra các quy định về người chưa thành niên nói chung, người chưa thành niên phạm tội nói riêng, các chế tài xử lý người chưa thành niên phạm tội phù hợp với điều kiện kinh tế - văn hoá – xã hội, phong tục, tập quán, pháp luật của mỗi nước. Chẳng hạn như:
Ở Thái Lan, ngày 28/01/1952, Thái Lan đã thành lập Toà án người chưa thành niên trung ương. Mục đích của việc thành lập Toà án này là dành cho trẻ em và những người chưa thành niên dưới 18 tuổi một biện pháp xử lý đặc biệt khi họ vi phạm pháp luật hình sự. Tuy nhiên, thẩm quyền của Toà án người chưa thành niên còn được phép giải quyết một số trường hợp tranh chấp gia đình liên quan tới hạnh phúc và lợi ích của trẻ em và người chưa thành niên.
Theo Điều 72 BLHS Thái Lan, thì một đứa trẻ chưa đến 7 tuổi cũng bị áp dụng hình phạt vì những tội đã được pháp luật quy định. Trẻ em từ 7 đến 14 tuổi nếu phạm tội cũng bị xét xử và có thể chịu hình phạt tù nhưng Toà án sẽ quyết định biện pháp xử lý đặc biệt bằng cách đưa vào một trường cải tạo hoặc gửi trẻ em đó cho một người hay một cơ quan nào mà Toà án thấy có khả năng thích hợp với việc cải tạo, giáo dục trẻ em đó (Điều 74 BLHS Thái Lan). Người chưa thành niên từ 14 đến 17 tuổi có thể bị phạt và được hưởng hình phạt đặc biệt. Trong trường hợp ở độ tuổi này, trước khi xét xử, tuyên án, Toà án bao giờ cũng xem xét kỹ hoàn cảnh, nhân thân và môi trường của người đó (Điều 75 BLHS Thái Lan). Người chưa thành niên bị bắt phải được đưa ngay tới trại giam giữ trong vòng 24 giờ và trong vòng 30 ngày tạm giữ, công tố viên phải hoàn thành thủ tục và đưa ra xét xử tại Toà án người chưa thành niên (Điều 50 và 51 Luật tổ chức Toà án người chưa thành niên và gia đình 1991). Trong quá trình giam giữ người chưa thành niên vẫn được chăm sóc và bảo vệ tốt. Hội đồng xét xử người chưa thành niên phạm tội gồm 2 thẩm phán chuyên nghiệp, 2 hội thẩm nhân dân và bắt buộc một trong hai hội thẩm phải có 1 là nữ. Phiên toà xét xử người chưa thành niên phải được xử kín, trong đó phải có mặt người bào chữa, cha mẹ hoặc người giám hộ. Thủ tục tố tụng của Toà án người chưa thành niên cũng đòi hỏi phải có cán bộ chuyên sâu hơn như các nhà tâm lý, y tế, giám sát, công tác xã hội. Mục đích tố tụng với người chưa thành niên là tạo cho họ một cơ hội để sửa chữa, thay đổi hành vi và mong muốn sau cùng là giúp họ trở thành những công dân tốt cho xã hội chứ không nhằm vào mục đích xử phạt các em như xử phạt người lớn.
Ở Nhật Bản, có Luật người chưa thành niên, nhưng phân cho Toà người chưa thành niên của Toà án gia đình giải quyết các vụ việc liên quan đến người dưới 20 tuổi. Mục đích của Luật người chưa thành niên là không trừng phạt những người chưa thành niên phạm tội mà "giúp đỡ cho họ phát triển tốt, tiến hành những biện pháp bảo vệ để thay đổi tính cách của người chưa thành niên phạm tội và tạo ra một môi trường giáo dục để điều chỉnh người chưa thành niên đã chót mắc phải sai lầm". BLTTHS của Nhật Bản quy định việc điều tra thuộc chức năng của cảnh sát và cơ quan công tố. Nếu Toà án xét thấy cần có biện pháp chăm sóc, bảo vệ thì thẩm phán ra quyết định đưa bị can, bị cáo vào trại giam chờ ngày xét xử. Thời hạn tạm giam không quá 4 tuần. Trong thời gian 4 tuần, Toà án phải hoàn tất những thủ tục cần thiết để đưa ra xét xử. Ở Nhật Bản không có thủ tục riêng cho việc truy tố và xét xử người chưa thành niên. Theo Luật người chưa thành niên, thì công tố viên không có quyền tham gia xét xử tại các Toà án gia đình. Tuy nhiên, thẩm phán có thể cho phép công tố viên tham dự và khi cần thiết có thể yêu cầu công tố viên tiến hành điều tra thêm.
Luật người chưa thành niên của Nhật Bản cho phép người chưa thành niên khi bị đưa ra xét xử tại Toà án gia đình được có một hoặc hai người đại diện. Người đại diện không phải là luật sư bào chữa như trong phiên toà xét xử người đã thành niên. Người đại diện này không nhất thiết phải là luật sư, có thể là giáo viên hoặc người làm công tác xã hội... Luật không quy định chi tiết các bước tiếp theo cần tiến hành như thế nào mà chỉ đưa ra chung chung rằng Toà án gia đình phải tiến hành xét xử trên cơ sở "chân tình, có lợi" cho người chưa thành niên và "cần có mọi cố gắng để bảo vệ cho được những thuộc tính cao đẹp nhất của người chưa thành niên và để cho người chưa thành niên có niềm tin" và việc xét xử cần tiến hành công khai.
Ở Hà Lan, lịch sử phát triển của chế tài áp dụng đối với người chưa thành niên trong Luật hình sự của Hà Lan đã góp phần tích cực vào việc hoàn thiện ngành luật hình sự của Hà Lan. Từ những yêu cầu thực tế của các cơ quan chức năng, cùng với những biến đổi của xã hội, việc nghiên cứu để tìm ra những chế tài thay thế là quan trọng và cần thiết. Khi người chưa thành niên phạm tội, người ta cân nhắc và áp dụng các chế tài thay thế, chỉ được phép tiến hành theo thủ tục tố tụng hình sự khi không còn cơ hội nào để có thể áp dụng chế tài thay thế. Trong vòng 10 năm qua, chế tài thay thế đã được áp dụng thường xuyên hơn đối với những vụ việc liên quan tới người chưa thành niên. Các chế tài thay thế áp dụng đối với người chưa thành niên không chỉ thay thế hình phạt tù mà còn thay thế cả những hình phạt truyền thống đang tồn tại như hình phạt tiền hay án treo. Có hai loại chế tài thay thế khác nhau được áp dụng với người chưa thành niên, đó là các dự án công tác (dịch vụ của cộng đồng đối với người chưa thành niên) và các dự án đào tạo.
Mục tiêu chung của các chế tài thay thế là tăng cường hệ thống giáo dục và hệ thống quản lý xét xử người chưa thành niên mà hệ thống này sẽ giúp cho các em hạn chế được tái phạm. Một mặt các chế tài thay thế hạn chế được việc áp dụng những chế tài truyền thống. Bởi lẽ, việc bỏ tù hay tống giam không đem lại sự thay đổi hành vi của các em theo hướng tốt nếu không muốn nói là có tác động ngược lại do sự tách biệt tạm thời môi trường tốt của gia đình, nhà trường và xã hội. Mặt khác, chế tài thay thế còn góp một phần tích cực vào hệ thống giáo dục cải tạo đối với người chưa thành niên bởi những nguyên tắc cụ thể đã được chú trọng tới trong quá trình giáo dục cải tạo của từng đối tượng vi phạm. Chính bản thân các em, về nguyên tắc phải chịu trách nhiệm cá nhân đối với những hành vi của mình và cũng chính các em phải thực hiện những nhiệm vụ cụ thể đem lại lợi ích không chỉ cho riêng mình mà còn mang lại lợi ích cho người khác. Các thủ tục hình sự chỉ được phép tiến hành áp dụng khi không còn cơ hội nào để có thể áp dụng chế tài thay thế. Các chế tài thay thế có thể áp dụng thay thế cho tất cả các loại tội phạm do người chưa thành niên gây ra... và có thể áp dụng với bất cứ đối tượng người chưa thành niên nào vi phạm (từ vi phạm lần đầu hay tái phạm cho đến tội phạm là nam hay nữ...).
3. Quyền của người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật Việt Nam
Ở nước ta, bảo đảm quyền của người chưa thành niên phạm tội là bảo đảm cho những quy định của pháp luật về người được thực hiện trên thực tế, phù hợp với thông lệ quốc tế; đồng thời bảo vệ quyền của người chưa thành niên phạm tội khi có sự xâm hại, sự vi phạm quyền của các em từ các cơ quan, các chủ thể thực hiện việc xem xét, xử lý hành vi phạm tội của người chưa thành niên. Pháp luật tuy là yếu tố quan trọng không thể thiếu, nhưng không phải là yếu tố duy nhất bảo đảm cho các em được hưởng thụ các quyền, cũng như bảo đảm cho các em không bị tước mất quyền của mình trong hoàn cảnh đối mặt với pháp luật và là đối tượng xem xét của pháp luật. Trên cơ sở các văn bản pháp luật quốc tế nêu trên, hệ thống tư pháp người chưa thành niên ở nước ta đã được quan tâm nghiên cứu và ngày càng hoàn thiện. Việc bảo đảm quyền của người chưa thành niên phạm tội phù hợp với thông lệ quốc tế, đồng thời phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và văn hóa hiện có của Việt Nam. Sự phù hợp này thể hiện trên cả hai phương diện đó là xây dựng pháp luật và thực thi pháp luật (1).
Hiện nay, trong pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, hàng loạt các chế định pháp luật mang tính cá biệt nhằm bảo đảm quyền của người chưa thành niên phạm tội. Đó là các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người chưa thành niên; nghĩa vụ của các cơ quan, người tiến hành tố tụng,…đối với người chưa thành niên phạm tội. Toàn bộ những quy định đó thể hiện những tư tưởng, nguyên tắc của Nhà nước ta mang tính nhân đạo và hướng tới mục tiêu chung bảo đảm cho quyền của người chưa thành niên không bị tước bỏ một cách trái luật (2).
Những quy định này không chỉ nhằm tạo ra cơ sở pháp lý cần thiết, quan trọng cho các cơ quan, người tiến hành tố tụng tránh được sự lạm dụng, vi phạm pháp luật đối với người chưa thành niên phạm tội, đồng thời cũng tạo ra hình ảnh về sự nghiêm minh của pháp luật giúp cho người chưa thành niên tự chấn chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với pháp luật (3).
Do đặc điểm của người chưa thành niên mà pháp luật nước ta cũng đã quy định nguyên tắc khi xử lý người chưa thành niên phạm tội nhằm bảo đảm “tính đặc biệt” của nhóm đối tượng này như sau: Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người chưa thành niên, các cơ quan có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân, điều kiện gây ra tội phạm (4).
Các quy định trong pháp luật nước ta đề cao việc giáo dục, giúp đỡ người chưa thành niên phạm tội sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh trở thành công dân có ích cho xã hội là mục đích chủ yếu. Mọi biện pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định trong pháp luật nước ta đảm bảo phù hợp với hoàn cảnh và tương xứng với tính chất và mức độ vi phạm của người chưa thành niên. Việc buộc người chưa thành niên phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình là nhằm mục đích để các em nhận thức sâu sắc rằng hành vi phạm tội của các em đã vi phạm các chuẩn mực và quy tắc của nhà nước và của xã hội. Tuy nhiên, biện pháp xử lý đối với người chưa thành niên được ghi nhận trong Bộ luật Hình sự được xem xét không chỉ đơn thuần dựa vào tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi cũng như hậu quả do hành vi đó gây ra, mà còn tính đến hoàn cảnh riêng của các em, bởi vì mục đích của hình phạt và việc áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên không phải chỉ là để trừng phạt người vi phạm, mà còn nhằm hỗ trợ người vi phạm phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng. Việc xét xử người chưa thành niên chỉ đặt ra trong những trường hợp thật cần thiết, nếu có phải áp dụng hình phạt đối với các em thì cũng lấy mục đích giáo dục, cải tạo là chủ yếu, không để hình ảnh của pháp luật tồn tại trong tâm trí các em quá sợ hãi hoặc quá khắt khe, dễ gây ra sự bất mãn, lòng thù hận (5).
Quyền của người chưa thành niên chỉ có thể bị hạn chế theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trên cơ sở quy định của pháp luật. Tòa án là cơ quan duy nhất nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra quyết định áp dụng hình phạt đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Sự phán quyết của Tòa án bao giờ cũng phải dựa trên cơ sở của pháp luật và chỉ tuân theo pháp luật. Điều này khẳng định, ở Việt Nam, ngoài Tòa án, không một cá nhân, một tổ chức hay một cơ quan nhà nước nào khác có quyền tước bỏ một hay một số quyền của người chưa thành niên. Khi quyền của người chưa thành niên phạm tội bị xâm phạm thì pháp luật đã quy định các trình tự, thủ tục khác nhau nhằm khôi phục lại các quyền đó. Vấn đề này đã được quy định cụ thể trong Bộ luật Tố tụng hình sự, nhằm hạn chế tới mức thấp nhất việc quyền con người nói chung, quyền của người chưa thành niên nói riêng bị vi phạm (6).
Tất cả người chưa thành niên phạm tội đều có quyền được bảo vệ và đối xử bình đẳng, không bị phân biệt dưới bất kỳ hình thức nào cho dù các em hoặc cha mẹ các em thuộc tôn giáo, quốc tịch, dân tộc hoặc nguồn gốc xã hội, tài sản, khuyết tật, dòng dõi, hay có chính kiến hoặc quan điểm khác nhau, hoặc các tiêu chí khác. Luật Hình sự và Luật Tố tụng hình sự ghi nhận rõ các nguyên tắc, trong đó có nguyên tắc không phân biệt đối xử khi giải quyết vụ án hình sự. Đồng thời, cũng quy định các chế tài áp dụng riêng đối với người chưa thành niên phạm tội nhằm phù hợp với đặc điểm tâm – sinh lý của lứa tuổi và bảo vệ khỏi sự vi phạm từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng. Người chưa thành niên thuộc nhóm đối tượng đặc biệt có các quyền cụ thể phải được tôn trọng ở mọi giai đoạn trong quá trình tố tụng. Do các em chưa trưởng thành, và dễ bị tổn thương nên pháp luật nước ta đã quy định hệ thống các quyền riêng phù hợp với lứa tuổi chưa trưởng thành của người chưa thành niên; đồng thời đặt ra các yêu cầu đối với người tham gia giải quyết vụ án có người chưa thành niên phạm tội đều phải tôn trọng và tuân thủ các quy định của pháp luật. Người chưa thành niên có quyền được bảo vệ ở mọi giai đoạn tố tụng nhằm đảm bảo cho các em được đối xử công bằng và các quyền của các em được tôn trọng đầy đủ (7).
Như vậy, người chưa thành niên nói chung, người chưa thành niên phạm tội nói riêng luôn được xác định là một chủ thể đặc biệt trong các quan hệ pháp luật của nhà nước ta. Nhà nước Việt Nam là nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, trong đó các quyền con người nói chung, quyền của người chưa thành niên phạm tội nói riêng sẽ luôn được bảo đảm và bảo vệ. Tuy nhiên, những khó khăn trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, cùng những tác động mang tính tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường, sự thiếu hoàn thiện của hệ thống pháp luật nói chung, hệ thống pháp luật Hình sự, Dân sự nói riêng cũng có ảnh hưởng nhất định đến các quyền của người chưa thành niên, thậm chí mức độ xâm hại đối với các quyền của người chưa thành niên trong thời gian vừa qua như một số vụ thảm sát mà nạn nhân là trẻ em đã xảy ra ở nước ta làm cho dư luận xã hội hoang mang và đây cũng là một chủ đề nóng bỏng.
Tuy nhiên, bên cạnh những tồn tại thì về cơ bản chúng ta vẫn phải thừa nhận rằng đời sống xã hội của đất nước ta trong thời kỳ đổi mới đã ngày một tốt hơn, các quyền của con người nói chung, quyền của người chưa thành niên phạm tội nói riêng ngày càng được đáp ứng tốt hơn. Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 được triển khai và đi vào cuộc sống đã thực sự làm thay đổi đất nước ta một cách tích cực trên nhiều phương diện, trong đó việc hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực thi pháp luật…đã và đang góp phần tăng cường hiệu quả của cả hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật hình sự nói riêng nhằm thực hiện và bảo vệ tốt hơn nữa các quyền của người chưa thành niên phạm tội trong thời gian tới./.
ThS. Đoàn Thị Ngọc Hải
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Xem, Quy tắc Bắc kinh năm 1985;
2. Xem, Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989;
3. Xem, Bộ quy tắc về Bảo vệ trẻ em bị tước tự do năm 1990;
4. Xem, Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020;
5. Xem, Hiến pháp năm 2013;
6. Xem, Bộ luật Dân sự năm 2015;
7. Xem, Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;
8. Xem, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;
9. Xem, Bộ luật Lao động năm 2016;
10. Xem, Luật Trẻ em năm 2016;
11. Xem, TS Phạm Thị Thanh Nga & ThS Nguyễn Xuân Tĩnh "Trẻ em" và "người chưa thành niên" trong pháp luật Việt Nam: nhìn từ nghĩa vụ thực hiện Công ước của LHQ về quyền trẻ em và tính thống nhất của hệ thống pháp luật”, nclp.org.vn.
12. Xem, ThS Nguyễn Trường Sơn “Một số quy định của pháp luật quốc tế và một số quốc gia về vấn đề quyền của người chưa thành niên phạm tội” Bộ môn pháp luật, Học viện An ninh nhân dân;
13. Xem, ThS. Bùi Thành Chung “Khái niệm người chưa thành niên và khái niệm tội phạm do người chưa thành niên gây ra - cơ sở có tính pháp lí quan trọng để phòng ngừa, điều tra tội phạm và xử lí người chưa thành niên phạm tội”.