Bảo hiểm vi mô là hình thức bảo hiểm dành cho người có thu nhập thấp đang ngày càng được chú trọng tại các nước nghèo và đang phát triển, theo đó, người nghèo đóng phí cho tổ chức cung cấp bảo hiểm để nhận được khoản hỗ trợ tài chính khi rủi ro không may xảy ra. Đặc trưng của bảo hiểm vi mô là phí bảo hiểm thấp, số tiền bảo hiểm nhỏ, đơn giản về các thủ tục tham gia cũng như yêu cầu chi trả quyền lợi bảo hiểm. Bảo hiểm vi mô cung cấp sự bảo vệ đối với các rủi ro như tử vong, thương tật toàn bộ và vĩnh viễn, nằm viện, rủi ro về tài sản đặc biệt là liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Hoạt động cung cấp bảo hiểm vi mô thông qua các tổ chức thường hướng tới người được bảo hiểm là hội viên của các tổ chức này. Với sự hỗ trợ của các tổ chức tài chính quốc tế, bảo hiểm vi mô đã và đang đóng góp đáng kể cho công cuộc xóa đói giảm nghèo. Tại Việt Nam, việc cung cấp sản phẩm bảo hiểm cho người có thu nhập thấp được triển khai bởi cả doanh nghiệp bảo hiểm và tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp.
Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010) và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo khung khổ pháp lý đầy đủ đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm, trong đó có sản phẩm bảo hiểm vi mô. Tuy nhiên, đối với việc triển khai bảo hiểm vi mô của các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp, thì theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010): “Luật này không áp dụng đối với bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tiền gửi và các loại bảo hiểm khác do Nhà nước thực hiện
không mang tính kinh doanh”. Do đó, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp cung cấp dịch vụ bảo hiểm vi mô không vì mục tiêu lợi nhuận không thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật này. Theo Quyết định số 2195/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và công văn số 5151/VPCP-KTTH ngày 26/6/2013 của Văn phòng Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Tài chính nghiên cứu, ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành các quy định pháp luật về bảo hiểm vi mô. Trong giai đoạn đầu, Bộ Tài chính đã ban hành hai công văn số 16037/BTC-QLBH ngày 20/11/2013 và 10418/BTC-QLBH ngày 29/7/2014 hướng dẫn hai tổ chức là Trung tâm Hỗ trợ phát triển nguồn lực tài chính cộng đồng CFRC và Hội Liên hiệp Phụ nữ triển khai thí điểm bảo hiểm vi mô. Các văn bản này chỉ mang tính chất tạm thời, không đảm bảo cơ sở pháp luật để thực hiện lâu dài.
Tính đến thời điểm hiện tại, các tổ chức chính trị - xã hội của Việt Nam (bao gồm: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Trung ương Hội liên hiệp phụ nữ, Hộ Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh) và các tổ chức xã hội - nghề nghiệp là các tổ chức lớn, có mạng lưới rộng khắp cả nước và có khả năng tập hợp quần chúng, vận động, khuyến khích hội viên tham gia bảo hiểm. Như vậy, hoạt động bảo hiểm vi mô cung cấp thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp còn tiềm năng rất lớn. Việc phát triển bảo hiểm vi mô thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp sẽ góp phần không nhỏ trong việc thực hiện chính sách đảm bảo an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước. Việc tạo khung khổ pháp lý cho hoạt động này không chỉ góp phần thực hiện chính sách bảo đảm an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước mà còn tạo điều kiện tham gia bảo hiểm cho người dân có thu nhập thấp, ít có điều kiện tiếp xúc với bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế của nhà nước hay các sản phẩm bảo hiểm thương mại của các doanh nghiệp bảo hiểm. Trong phạm vi nghiên cứu, tác giả tập trung phân tích thực trạng của việc triển khai bảo hiểm vi mô ở Việt Nam, từ đó đề xuất chính sách nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm vi mô trong thời gian tới, trọng tâm là hoạt động bảo hiểm vi mô của các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp.
I. TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI BẢO HIỂM VI MÔ
Để được coi là “bảo hiểm vi mô”, sản phẩm bảo hiểm phải đạt được 4 điều kiện: (i) Sản phẩm phải phục vụ các nhóm người, các ngành kinh doanh và các khu vực yếu thế, dễ bị tổn thương; (ii) Chi phí thấp; (iii) Thủ tục chi trả bảo hiểm thuận tiện và đơn giản; (iv) Lãi suất từ sản phẩm tương đối thấp, xấp xỉ với chi phí đã bỏ ra. Bảo hiểm vi mô là các sản phẩm phân bổ và giảm thiểu rủi ro liên quan đến chi phí, điều khoản, mức hỗ trợ và kênh phân phối được thiết kế một cách phù hợp cho thị trường có thu nhập thấp và thường bảo hiểm cho rất nhiều lĩnh vực, từ nhân thọ và chăm sóc sức khỏe tới thời tiết, tài sản, mùa màng, gia súc và thiên tai. Đối tượng chủ yếu là nông dân và khu vực nông thôn, những người có thu nhập thấp. Hiện này, việc cung cấp sản phẩm bảo hiểm cho người có thu nhập thấp được triển khai bởi cả doanh nghiệp bảo hiểm và tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp.
1. Bảo hiểm vi mô do các doanh nghiệp bảo hiểm triển khai
Hiện nay, có 03 doanh nghiệp bảo hiểm được Bộ Tài chính phê chuẩn cho triển khai sản phẩm bảo hiểm vi mô là Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Prudential Việt Nam, Công ty TNHH Manulife (Việt Nam) và Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Dai-ichi Việt Nam, trong đó kết quả triển khai của Dai-ichi không đáng kể, Prudential đã dừng cung cấp sản phẩm này. Tính đến thời điểm hiện tại, chỉ còn Công ty TNHH Manulife (Việt Nam) triển khai sản phẩm bảo hiểm vi mô. Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010) và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo khung khổ pháp lý cơ bản đầy đủ cho các doanh nghiệp bảo hiểm triển khai sản phẩm bảo hiểm vi mô.
Về nguyên tắc, điều khoản bảo hiểm được thiết kế đơn giản, ngắn gọn, dễ hiểu và ít điều khoản loại trừ để phù hợp với đối tượng khách hàng có thu nhập thấp và sống tại vùng nông thôn. Khách hàng không bị yêu cầu thẩm định sức khoẻ nên thủ tục cấp hợp đồng bảo hiểm được thực hiện nhanh gọn, đáp ứng nhu cầu bảo hiểm của khách hàng. Thủ tục giải quyết quyền lợi bảo hiểm đơn giản, thời hạn giải quyết quyền lợi bảo hiểm tối đa là 15 ngày, ngắn hơn nhiều so với thời hạn giải quyết 30 ngày đối với sản phẩm bảo hiểm thông thường
.
Ví dụ: Sản phẩm bảo hiểm vi mô nhân thọ của Manulife được Bộ Tài chính cho phép triển khai dưới hình thức sản phẩm thuộc nghiệp vụ bảo hiểm tử kỳ có một số đặc điểm cơ bản như sau: Sản phẩm bảo hiểm vi mô nhân thọ của Manulife được tích hợp nhiều quyền lợi bảo hiểm bao gồm: Quyền lợi tử vong không do tai nạn với số tiền 10 triệu đồng; quyền lợi tử vong do tai nạn với số tiền 20 triệu đồng; quyền lợi thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn với số tiền từ 4 triệu đến 6 triệu đồng; quyền lợi trợ cấp thu nhập khi nằm viện với mức chi trả 180.000 đồng đến 360.000 đồng cho 1 lần nằm viện; quyền lợi hoàn phí khi đáo hạn hợp đồng (khi kết thúc thời hạn hợp đồng bảo hiểm, nếu khách hàng không có yêu cầu giải quyết quyền lợi bảo hiểm thì Công ty sẽ hoàn lại toàn bộ số phí bảo hiểm khách hàng đã đóng). Phí bảo hiểm đóng hàng năm hoặc hàng tháng, thời hạn đóng phí bằng thời hạn hợp đồng bảo hiểm. Mức phí bảo hiểm là 300.000 đồng/năm.
Đối tượng tham gia bảo hiểm vi mô của Manulife được giới hạn là hội viên Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam có độ tuổi từ 20 đến 50 tuổi, có thu nhập thấp và không ổn định, tập trung ở các vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn. Như vậy sản phẩm bảo hiểm này hướng đến những đối tượng có thể bảo hiểm được nhưng chưa có điều kiện tiếp cận dịch vụ bảo hiểm nhân thọ. Manulife phối hợp với Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tổ chức bán hàng trực tiếp thông qua các buổi hội thảo cho các hội viên Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, cụ thể như sau: Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp chịu trách nhiệm tổ chức hội thảo, các đại lý kinh doanh của Công ty đến giới thiệu sản phẩm và tư vấn để hội viên ký kết hợp đồng bảo hiểm ngay tại các buổi hội thảo này. Việc tổ chức hội thảo được thực hiện thuận lợi và tiết kiệm chi phí do dựa vào mạng lưới hoạt động sẵn có của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và cơ sở vật chất tại địa phương. Ngoài việc phối hợp tổ chức hội thảo, Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp cử hội viên đại diện (trưởng nhóm) tiến hành thu phí bảo hiểm định kỳ và nộp vào tài khoản của Manulife. Trưởng nhóm cũng được phép ký làm chứng cho yêu cầu chi trả quyền lợi bảo hiểm của khách hàng đối với Công ty bảo hiểm.
Kết quả triển khai, về địa bàn triển khai: Tháng 9/2009 Manulife bắt đầu triển khai tại 2 tỉnh Hải Phòng và Tiền Giang. Đến cuối năm 2016, Manulife đã tiến hành bán sản phẩm bảo hiểm tại 19 tỉnh, thành phố (bao gồm Phú Thọ, Thái Nguyên, Bắc Giang, Hải Phòng, Nam Định, Hưng Yên, Đà Nẵng, Quảng Nam, Khánh Hòa, Bình Thuận, Tiền Giang, Đồng Tháp, Bến Tre). Tính đến hết 31/12/2016, số lượng hợp đồng có hiệu lực của Công ty là 64.272 hợp đồng với tổng số phí bảo hiểm thu được là 21,1 tỷ đồng, chỉ chiếm 0,34% doanh thu bảo hiểm của Công ty.
Mặc dù đạt được một số kết quả nhất định nhưng việc triển khai bảo hiểm vi mô của các doanh nghiệp bảo hiểm còn gặp rất nhiều khó khăn, trước hết là việc xây dựng mô hình thu phí bảo hiểm sao cho hiệu quả, đơn giản để duy trì và phát triển loại hình bảo hiểm này là một trở ngại lớn, bởi phải tính toán chi phí hợp lý cho người đi thu phí, cũng như trở ngại trong việc thu phí từ những người có thu nhập mang tính thời vụ. Đây là mâu thuẫn chủ yếu mà các doanh nghiệp bảo hiểm vấp phải khi triển khai sản phẩm này. Ngoài ra còn chưa kể tới việc triển khai sản phẩm này cũng sẽ làm thay đổi phần nào đó chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm, gây ra những xáo trộn trong hoạt động kinh doanh. Bên cạnh đó, việc tìm ra một kênh phân phối thực sự hiệu quả để bán sản phẩm bảo hiểm vi mô tới tận tay người dân nông thôn đang là bài toán khó cho các doanh nghiệp bảo hiểm. Hiện nay việc các doanh nghiệp bảo hiểm bán sản phẩm bảo hiểm vi mô không thông qua đại lý, mà chỉ thông qua các hội, đoàn thể nên công tác thu phí hàng tháng cũng là một vấn đề nan giải. Đồng thời, với nhận thức về bảo hiểm còn hạn chế, khách hàng là người nghèo, người có thu nhập thấp cảm thấy không “mặn mà” khi tiếp xúc với loại sản phẩm bảo hiểm mới này.
2. Bảo hiểm vi mô do các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp triển khai
2.1. Bảo hiểm vi mô do Trung tâm Hỗ trợ phát triển nguồn lực tài chính cộng đồng (CFRC) triển khai
Đối tượng khách hàng mà CFRC hướng đến là phụ nữ, nhóm dân tộc thiểu số đang là thành viên của Mạng lưới tài chính vi mô M7 với phạm vi hoạt động hiện nay là 02 Quỹ xã hội Uông Bí, thành phố Điện Biên Phủ và 02 Dự án tài chính vi mô tại Tuần Giáo và Đồng Hỷ. CFRC cung cấp 02 sản phẩm bảo hiểm theo hướng dẫn của Bộ Tài chính: (i) Sản phẩm bảo hiểm bảo vệ sinh mạng vốn vay (nếu người tham gia bảo hiểm tử vong, CFRC sẽ trả số tiền dư nợ còn lại tại tổ chức tài chính vi mô); (ii) Sản phẩm nhân thọ cơ bản: người tham gia bảo hiểm được hưởng quyền lợi hỗ trợ chăm sóc sức khỏe khi phải nằm viện, quyền lợi tử vong/thương tật toàn bộ vĩnh viễn.
Số lượng thành viên tham gia bảo hiểm vi mô đến hết 31/12/2016 là 7.986 người. Tổng doanh thu năm 2016 là 1.121 triệu đồng. Trong đó, doanh thu phí bảo hiểm là 759 triệu đồng, doanh thu hoạt động đầu tư là 362 triệu đồng. Tổng chi phí năm 2016 là 554 triệu đồng, trong đó chi trích lập dự phòng phí chưa được hưởng là 45 triệu đồng, chi dịch vụ cho đối tác là 96 triệu đồng, chi vận hành chương trình là 272 triệu đồng. Về chi trả quyền lợi bảo hiểm: CFRC đã chi trả cho 35 trường hợp tử vong/thương tật toàn bộ và vĩnh viễn với số tiền là 19,3 triệu đồng, chi trả quyền lợi hỗ trợ viện phí cho 588 trường hợp với số tiền là 116,7 triệu đồng và xóa nợ cho 7 trường hợp với số tiền là 75,5 triệu đồng. Chênh lệch thu - chi là 567 triệu đồng đang được tích lũy tại CFRC.
Hoạt động bảo hiểm vi mô của CFRC đã đạt được một số kết quả ban đầu, không chỉ tiết kiệm chi phí hoạt động (việc thu phí bảo hiểm, chi trả quyền lợi bảo hiểm theo định kỳ, gắn với hoạt động tài chính vi mô của các Quỹ xã hội nên giảm các khoản chi phí hoạt động) mà sản phẩm bảo hiểm được thiết kế đơn giản với các quyền lợi cơ bản mang nhiều tính chất hỗ trợ về tinh thần với mức đóng góp hàng tuần, hàng tháng thấp. Sản phẩm được cung cấp đến các thành viên dựa trên lòng tin của thành viên đối với tổ chức. Tuy nhiên, việc triển khai bảo hiểm vi mô của CFRC tiềm ẩn rủi ro về tính bền vững do năng lực tài chính có hạn và khó khăn trong việc mở rộng hoạt động. Hiện nay, CFRC chỉ còn triển khai với 4 đối tác là 2 Quỹ xã hội (Uông Bí, thành phố Điện Biên Phủ) và 2 Dự án tài chính vi mô (Tuần Giáo, Đồng Hỷ). Việc mở rộng địa bàn triển khai của CFRC gặp khó khăn do không tìm được đối tác cung cấp sản phẩm, nhiều quỹ xã hội thuộc M7 hiện đang làm đại lý cho các doanh nghiệp bảo hiểm thay vì hợp tác với CFRC. Số lượng thành viên tham gia năm 2016 còn 7.986 người, giảm 950 thành viên so với năm 2015. Bên cạnh đó, địa bàn cung cấp dịch vụ bảo hiểm vi mô thuộc các vùng núi cao, dân tộc thiểu số nên nhận thức của người dân về bảo hiểm vi mô chưa đồng đều dẫn đến tỷ lệ tham gia bảo hiểm vi mô không cao do có sự so sánh giữa bảo hiểm thương mại và bảo hiểm vi mô, nhiều nơi còn xảy ra hiện tượng trục lợi bảo hiểm.
2.2. Bảo hiểm vi mô do Hội Liên hiệp Phụ nữ triển khai
Quỹ bảo hiểm vi mô của Hội Liên hiệp Phụ nữ được phép triển khai 04 sản phẩm bao gồm: Sản phẩm bảo hiểm tương trợ y tế; Sản phẩm bảo hiểm tương trợ nhân thọ; Sản phẩm bảo hiểm tương trợ tuổi già; Sản phẩm bảo hiểm tương trợ vốn vay. Đối tượng khách hàng của Hội Liên hiệp phụ nữ là phụ nữ thuộc các hộ nghèo, cận nghèo, hộ thu nhập thấp đồng thời là thành viên của Quỹ TYM. Quỹ bảo hiểm vi mô mới chỉ cấp bảo hiểm vi mô tại 10 tỉnh/thành phố (Hà Nội, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Thái Nguyên, Phú Thọ, Nam Định, Thanh Hóa và Nghệ An) nơi Quỹ TYM đang được cấp phép chính thức hoạt động, với 18 chi nhánh và 40 phòng giao dịch. Đến nay, Quỹ bảo hiểm vi mô đã cung cấp sản phẩm bảo hiểm tương trợ vốn vay đến 100% các thành viên vay vốn của TYM. Tuy nhiên trong giai đoạn thí điểm năm 2016, Quỹ bảo hiểm vi mô chỉ triển khai Sản phẩm bảo hiểm tương trợ vốn vay, cung cấp cho các thành viên của Quỹ TYM với mức phí bằng 0,4%/năm. Trường hợp người tham gia bảo hiểm tử vong trong thời gian tham gia bảo hiểm, Quỹ bảo hiểm vi mô sẽ thanh toán số tiền dư nợ còn lại của thành viên tại Quỹ TYM và hoàn trả toàn bộ số vốn thành viên đã thanh toán cho Quỹ TYM. Việc Quỹ bảo hiểm vi mô của Hội chỉ triển khai trước mắt 01 sản phẩm do thời gian thí điểm bảo hiểm vi mô 2016 là tương đối ngắn (từ 15/6/2016), để tích lũy kinh nghiệm, Quỹ chỉ tập trung bán Sản phẩm bảo hiểm tương trợ vốn vay, là sản phẩm dựa trên dữ liệu có sẵn về vốn vay của Quỹ TYM, việc thu phí và chi trả quyền lợi bảo hiểm đơn giản, dễ theo dõi và dễ quản lý.
Tuy mới bắt đầu triển khai từ 15/6/2016 song việc triển khai bảo hiểm vi mô của Hội Liên hiệp Phụ nữ đã đạt được những kết quả nhất định, cụ thể là: Số lượng thành viên tham gia bảo hiểm vi mô đến hết 31/12/2016: là 69.827 người. Theo báo cáo của Hội Liên hiệp Phụ nữ, bình quân hàng tháng có 11.637 khách hàng của Quỹ TYM tham gia bảo hiểm; Tổng doanh thu của Quỹ bảo hiểm vi mô là 4,73 tỷ đồng. Trong đó, doanh thu phí bảo hiểm đạt 4,71 tỷ đồng; Tổng chi phí là 2,8 tỷ đồng, trong đó chi trích lập dự phòng là 2 tỷ đồng; Về chi trả quyền lợi bảo hiểm: Quỹ bảo hiểm vi mô đã chi trả cho 21 trường hợp với số tiền là 329 triệu đồng góp phần hỗ trợ gia đình của các thành viên không may gặp nạn và bảo đảm an toàn tài chính cho quỹ TYM; Chênh lệch thu - chi là 944,5 triệu đồng đang được tích lũy tại Quỹ.
Việc triển khai bảo hiểm vi mô của Hội Liên hiệp Phụ nữ đáp ứng nhu cầu của những hộ gia đình nghèo, thu nhập thấp nhằm góp phần vào chủ trương an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước và nhận được sự ủng hộ về ý nghĩa nhân văn của loại hình bảo hiểm này. Sản phẩm bảo hiểm vi mô của Hội Liên hiệp Phụ nữ được thiết kế đơn giản, là sản phẩm tiếp cận dễ dàng với mức phí phù hợp với đại bộ phận người nghèo tại các tỉnh/thành có điều kiện khó khăn. Thông qua mạng lưới của Quỹ TYM và của Hội Liên hiệp Phụ nữ, sản phẩm đã được tuyên truyền sâu rộng trong người dân, được mọi người đón nhận tích cực. Sản phẩm được cung cấp đến các thành viên dựa trên lòng tin của thành viên đối với tổ chức. Đội ngũ cán bộ làm bảo hiểm vi mô của Hội Liên hiệp Phụ nữ và Quỹ TYM đã được đào tạo về kỹ năng tuyên truyền sản phẩm bảo hiểm, nhiệt tình công việc, tâm huyết với mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo và phòng ngừa rủi ro cho các thành viên. Việc tận dụng mạng lưới tổ chức của Hội Liên hiệp Phụ nữ để cung cấp sản phẩm, thu phí bảo hiểm, chi trả quyền lợi bảo hiểm theo định kỳ, gắn với hoạt động tài chính vi mô giúp chi phí quản lý thấp, tiết kiệm chi phí hoạt động. Tuy nhiên, vướng mắc lớn nhất hiện nay đối với việc triển khai bảo hiểm vi mô của Hội Liên hiệp Phụ nữ nói riêng và các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp nói chung là chưa có văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh, hiện nay, việc triển khai bảo hiểm vi mô của các tổ chức này chỉ là các công văn hướng dẫn của Bộ Tài chính. Bên cạnh đó, việc triển khai bảo hiểm vi mô của Hội Liên hiệp Phụ nữ chỉ đang giới hạn đối với các thành viên của TYM và chỉ triển khai ở các địa bàn TYM có chi nhánh (10 tỉnh). Trên thực tế, lượng thành viên có nhu cầu tham gia sản phẩm bảo hiểm vi mô của Hội Liên hiệp Phụ nữ rất lớn với 15 triệu thành viên là chị em phụ nữ. Trong hệ thống tổ chức Hội Liên hiệp Phụ nữ, vẫn còn trên 30 quỹ xã hội cấp tỉnh, huyện, và trên 300 các chương trình dự án tài chính vi mô chưa kết nối để cung cấp sản phẩm bảo hiểm vốn vay và các sản phẩm bảo hiểm vi mô khác cho thành viên. Thông qua kết quả hoạt động của quỹ bảo hiểm vi mô thời gian qua, hiện đã có nhiều quỹ tài chính vi mô mong muốn được hợp tác và làm đại lý bảo hiểm vi mô cho Hội trong thời gian tiếp theo. Do đang trong thời gian thí điểm nên Quỹ bảo hiểm vi mô được tổ chức với cơ cấu đơn giản, gọn nhẹ. Trong thời gian tới để tiếp tục vận hành với quy mô lớn và đảm bảo tính bền vững, Quỹ bảo hiểm vi mô cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống vận hành, tài chính bao gồm các chính sách, quy trình quản lý dự phòng bảo hiểm, cũng như xây dựng kế hoạch kinh doanh và hoàn thiện các văn bản hướng dẫn kỹ thuật.
II. ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM VI MÔ CỦA TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI, XÃ HỘI - NGHỀ NGHIỆP
1. Quan điểm, mục tiêu xây dựng chính sách về bảo hiểm vi mô
1.1. Quan điểm
- Việc ban hành chính sách bảo đảm minh bạch, rõ ràng để tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng áp dụng và giảm thiểu thủ tục hành chính theo quy định về cải cách thủ tục hành chính.
- Việc ban hành chính sách bảo đảm tính bền vững, phù hợp với đặc thù hoạt động bảo hiểm, an toàn về tài chính của tổ chức cung cấp bảo hiểm, từ đó đáp ứng đầy đủ cam kết với bên mua bảo hiểm.
1.2. Mục tiêu
Việc ban hành chính sách nhằm từng bước phát triển các sản phẩm bảo hiểm đơn giản, thiết thực, phù hợp với nhu cầu, khả năng tham gia của người nghèo, người có thu nhập thấp.
2. Hình thức văn bản về bảo hiểm vi mô
Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010) và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo khung khổ pháp lý đầy đủ đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm. Tuy nhiên, đối với việc triển khai bảo hiểm vi mô của các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp, thì theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010): “Luật này không áp dụng đối với bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tiền gửi và các loại bảo hiểm khác do Nhà nước thực hiện không mang tính kinh doanh”. Do đó, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp triển khai bảo hiểm vi mô không vì mục tiêu lợi nhuận không thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật này. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội, tạo khung khổ pháp lý cho tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp triển khai bảo hiểm vi mô, góp phần thực hiện chính sách bảo đảm an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước thì có thể vận dụng quy định tại khoản 3 Điều 19 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015. Theo đó, Chính phủ có thể ban hành Nghị định để quy định “Vấn đề cần thiết thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội nhưng chưa đủ điều kiện xây dựng thành luật hoặc pháp lệnh để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Trước khi ban hành nghị định này phải được sự đồng ý của Ủy ban thường vụ Quốc hội”. Các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp của Việt Nam đều là các tổ chức lớn, có số lượng hội viên đông đảo, mạng lưới hoạt động rộng và có khả năng tập hợp, vận động khuyến khích hội viên tham gia bảo hiểm nhằm mục đích an sinh xã hội, không vì mục tiêu lợi nhuận có nhiều thuận lợi. Hiện nay, các văn bản hướng dẫn tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp triển khai thí điểm bảo hiểm vi mô chỉ mang tính chất tạm thời, không đảm bảo cơ sở pháp luật để thực hiện lâu dài. Do đó, việc Chính phủ ban hành Nghị định về bảo hiểm vi mô đối với các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp là cần thiết sau khi có sự chấp thuận của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
3. Đề xuất hoàn thiện chính sách, pháp luật về hoạt động bảo hiểm vi mô của tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp
3.1. Chính sách đối tượng được phép cung cấp bảo hiểm vi mô
Bảo hiểm vi mô nhằm mục đích an sinh xã hội, không vì mục tiêu lợi nhuận. Các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp của Việt Nam đều là các tổ chức lớn, có số lượng hội viên đông đảo, mạng lưới hoạt động rộng và có khả năng tập hợp, vận động khuyến khích hội viên tham gia bảo hiểm, tiết kiệm được chi phí cung cấp giúp việc triển khai được thuận lợi. Việc tạo khung khổ pháp lý cho hoạt động này sẽ góp phần thực hiện chính sách bảo đảm an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước, tạo điều kiện cho người dân có thu nhập thấp, ít có điều kiện tiếp xúc với bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế của nhà nước hay các sản phẩm bảo hiểm thương mại của các doanh nghiệp bảo hiểm. Chính sách này cần quy định cụ thể đối tượng được phép cung cấp bảo hiểm vi mô, đảm bảo hoạt động triển khai bảo hiểm vi mô có tính bền vững và đem lại lợi ích cho người dân. Theo đó, chỉ cho phép các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp, đáp ứng các điều kiện về tổ chức hoạt động, quản trị điều hành, quản lý tài chính phù hợp là được phép cung cấp bảo hiểm vi mô.
Việc quy định tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp và điều kiện triển khai bảo hiểm vi mô tạo khung khổ pháp lý cho các tổ chức này triển khai, phù hợp với thực tiễn triển khai bảo hiểm vi mô hiện nay của một số tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp. Các tổ chức này lớn, có số lượng hội viên đông đảo, mạng lưới hoạt động rộng và có khả năng tập hợp, vận động khuyến khích hội viên tham gia bảo hiểm, vì vậy tiết kiệm được chi phí, đặc biệt là trong khâu tìm hiểu thông tin, giới thiệu khách hàng, thẩm định, thu phí và giải quyết quyền lợi bảo hiểm và có khả năng giữ được tính ổn định, bền vững cho hoạt động. Đồng thời, do có sự đồng đều về mạng lưới hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp nên hoạt động có tình bền vững. Tuy nhiên, việc triển khai bảo hiểm vi mô giới hạn trong số các thành viên của tổ chức chính trị - xã hội nên số lượng tham gia dự kiến tối đa 44 triệu người (tính tại thời điểm lập báo cáo), vì vậy doanh thu phí bảo hiểm thu được có thể sẽ không cao. Việc triển khai bảo hiểm vi mô chỉ tập trung ở thành viên của các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp, không rộng rãi trong cộng đồng xã hội.
Chính sách này được quy định theo hướng chỉ cho phép tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp đáp ứng các điều kiện về tổ chức hoạt động, quản trị điều hành, quản lý tài chính được phép cung cấp bảo hiểm vi mô. Tuy nhiên, các tổ chức xã hội không chỉ có tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp mà còn bao gồm: tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức tự quản, tổ chức khác... Các tổ chức này đều bình đẳng với nhau, mà theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Hiến pháp năm 2013 thì: “Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”. Do đó, nội dung chính sách cần tập trung phân tích, đánh giá về các vấn đề cụ thể sau:
(i) Việc thu hẹp đối tượng cung cấp bảo hiểm vi mô dựa trên cơ sở khoa học, cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn nào (ví dụ: vì sao loại trừ doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức khác đáp ứng đủ điều kiện);
(ii) Ưu - nhược điểm, nguồn lực (cơ sở vật chất, con người, bộ máy,...) của tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp khi cung cấp bảo hiểm vi mô. Trong đó, cơ quan chủ trì lập đề nghị cần lưu ý: Các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp như Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam,... được thành lập trên cơ sở tự nguyện, hoạt động bằng ngân sách nhà nước và không vì mục tiêu lợi nhuận, người lao động là công chức, viên chức, không có kiến thức, kỹ năng chuyên sâu về tài chính, tín dụng, ngân hàng, bảo hiểm thì việc triển khai bảo hiểm vi mô tiềm ẩn nhiều rủi ro tài chính;
(iii) Tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp được cung cấp bảo hiểm vi mô cho tất cả các cá nhân thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm vi mô hay chỉ được cung cấp bảo hiểm vi mô cho thành viên của tổ chức mình thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm vi mô.
3.2. Chính sách quy định điều kiện tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp được phép triển khai thực hiện bảo hiểm vi mô
Để đảm bảo việc triển khai bảo hiểm vi mô bền vững, ổn định, cần thiết có các quy định về tổ chức, hệ thống quản lý nghiệp vụ, quản lý tài chính của tổ chức bảo hiểm vi mô. Các quy định vừa đảm bảo tính khả thi, vừa đảm bảo tính thận trọng, phù hợp với đặc thù hoạt động bảo hiểm. Chính sách quy định theo hướng chỉ quy định các điều kiện cơ bản về tổ chức, hệ thống quản trị hoạt động triển khai bảo hiểm vi mô của tổ chức bảo hiểm vi mô. Cụ thể là:
(i) Tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp thành lập đơn vị độc lập hoặc sử dụng một đơn vị hành chính sự nghiệp trực thuộc tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp để triển khai bảo hiểm vi mô, gọi là tổ chức bảo hiểm vi mô;
(ii) Người đứng đầu tổ chức bảo hiểm vi mô đáp ứng các tiêu chuẩn;
(iii) Tổ chức bảo hiểm vi mô có hệ thống theo dõi chi tiết đến từng hợp đồng bảo hiểm và hệ thống kế toán tách bạch các hoạt động bảo hiểm vi mô khỏi các hoạt động khác của tổ chức bảo hiểm vi mô;
(4) Việc triển khai bảo hiểm vi mô chỉ cung cấp cho thành viên của tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp và không vì mục tiêu lợi nhuận;
(5) Được Bộ Tài chính cho phép triển khai bảo hiểm vi mô.
Việc quy định các điều kiện cơ bản trong triển khai bảo hiểm vi mô là phù hợp với đặc điểm của sản phẩm bảo hiểm vi mô do các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp triển khai là sản phẩm đơn giản, có lợi thế về kênh phân phối. Các điều kiện hoạt động đơn giản phù hợp với khả năng tài chính của các tổ chức này, để thiết lập hệ thống công nghệ thông tin, cơ sở hạ tầng đầu tư nhân sự, các chi phí khác khi triển khai bảo hiểm vi mô. Quy định các điều kiện cơ bản về triển khai bảo hiểm vi mô vừa giúp các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp trong việc thực hiện triển khai, vừa bảo đảm kiểm soát rủi ro trong việc phân phối bảo hiểm vi mô, tách biệt khỏi các hoạt động khác của tổ chức chính trị - xã hội, xã hội nghề nghiệp. Việc quy định các điều kiện cơ bản giúp phương án này khả thi hơn, từ đó số lượng tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp có khả năng đáp ứng các điều kiện để triển khai bảo hiểm vi mô tăng, thành viên được bảo hiểm tăng, góp phần thực hiện chính sách an sinh xã hội của Chính phủ.
Do các tổ chức bảo hiểm vi mô không phải đáp ứng các điều kiện tương tự như đối với doanh nghiệp bảo hiểm triển khai bảo hiểm theo Luật kinh doanh bảo hiểm nên chính sách cần tập trung phân tích, đánh giá làm rõ các vấn đề sau:
(i) Theo quy định tại số thứ tự 26 Phụ lục IV Luật đầu tư năm 2014 (sửa đổi năm 2016) thì kinh doanh bảo hiểm là ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Theo đó, Luật kinh doanh bảo hiểm và Nghị định số 73/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật kinh doanh bảo hiểm và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm quy định các doanh nghiệp bảo hiểm phải đáp ứng các điều kiện về thành lập và hoạt động, chế độ quản lý tài chính theo quy định tại Nghị định này. Việc các doanh nghiệp bảo hiểm phải đáp ứng đủ các điều kiện về thành lập và hoạt động, chế độ quản lý tài chính theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm hoạt động ổn định, an toàn; bảo đảm khả năng thanh toán, ngăn ngừa và giải quyết rủi ro. Do đó, chính sách làm rõ khả năng bảo đảm an toàn vốn, khả năng thanh toán, ngăn ngừa và giải quyết rủi ro của các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp; các tổ chức này cần đáp ứng điều kiện kinh doanh gì để bảo đảm hoạt động ổn định, an toàn, hiệu quả; những điều kiện gì cần nới rộng để tạo tính linh hoạt, tiết kiệm thời gian, chi phí, phù hợp với đặc điểm tổ chức, hoạt động của tổ chức và đặc điểm của loại hình bảo hiểm vi mô;
(ii) Với đặc điểm riêng về tổ chức và hoạt động thì chính sách cần phân tích, làm rõ sự khác nhau về điều kiện triển khai bảo hiểm vi mô của tổ chức chính trị - xã hội và tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đảm bảo các điều kiện này bám sát đặc điểm tổ chức, hoạt động, thành viên của từng tổ chức;
(iii) Về tổ chức bảo hiểm vi mô, chính sách quy định tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp thành lập đơn vị độc lập hoặc sử dụng một đơn vị sự nghiệp trực thuộc tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp để triển khai bảo hiểm vi mô, gọi là tổ chức bảo hiểm vi mô. Chính sách cần phân tích rõ:
Thứ nhất, sự cần thiết của việc thành lập thêm bộ máy, theo đó, Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Ban Chấp hành trung ương Đảng về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tại mục III.2 về nhiệm vụ và giải pháp đã quán triệt: “Tập trung rà soát, sắp xếp, kiện toàn tổ chức các cơ quan, đơn vị của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội. Trước mắt, giữ ổn định tổ chức như hiện nay. Không thành lập các tổ chức trung gian; chỉ thành lập tổ chức mới trong trường hợp cá biệt thật sự cần thiết do yêu cầu của thực tiễn”, “Kiên trì thực hiện chủ trương tinh giản biên chế cán bộ, công chức, viên chức, bảo đảm không tăng tổng biên chế của cả hệ thống chính trị. Trường hợp phải thành lập tổ chức mới hoặc được giao nhiệm vụ mới thì các cơ quan tổ chức, đơn vị tự cân đối, điều chỉnh trong tổng số biên chế hiện có”, “Giữ ổn định biên chế của các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp đến hết năm 2016. Từ năm 2017, thực hiện, khoán hoặc hỗ trợ kinh phí để thực hiện các nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước giao”.
Thứ hai, làm rõ tư cách chủ thể của tổ chức này, nguồn ngân sách, nguồn nhân lực, việc phân tách hoạt động của tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp với hoạt động của tổ chức bảo hiểm vi mô.
3.3. Chính sách quản lý thận trọng về tài chính, kế toán
Để đảm bảo các trách nhiệm đã cam kết với người tham gia bảo hiểm và duy trì khả năng thanh toán trong suốt quá trình hoạt động, chính sách quy định và hướng dẫn cụ thể các yêu cầu đối với việc quản lý tài chính của tổ chức bảo hiểm vi mô bao gồm trích lập dự phòng (phương pháp, mức trích lập), đầu tư tài chính (danh mục, hạn mức đầu tư), theo dõi kế toán, khả năng thanh toán. Quy định có tính chất hướng dẫn tổ chức bảo hiểm vi mô thực hiện việc quản lý tài chính theo các chuẩn mực cơ bản nhất vừa thuận tiện trong công tác quản trị, vừa tiết kiệm chi phí hoạt động và bảo đảm phòng ngừa rủi ro. Cụ thể là:
- Khả năng thanh toán.
- Dự phòng nghiệp vụ đưa ra quy định về nguyên tắc trích lập dự phòng và hướng dẫn phương pháp, định kỳ trích lập đối với từng dự phòng cụ thể.
- Đầu tư tài chính: Hướng dẫn danh mục đầu tư, hạn mức đầu tư.
- Theo dõi kế toán: Nguyên tắc cơ bản của việc theo dõi kế toán thực hiện theo từng sản phẩm và tách biệt khỏi các hoạt động khác của tổ chức bảo hiểm vi mô.
Theo thống kê của Bộ Tài chính, đối với 01 doanh nghiệp bảo hiểm mới thành lập, để có được hạ tầng cơ sở như các doanh nghiệp bảo hiểm, thông thường, một tổ chức phải bỏ ra từ 66 tỷ đến 220 tỷ đồng (khoảng 3- 10 triệu đô la Mỹ) tùy quy mô doanh nghiệp để thiết lập hệ thống công nghệ thông tin: hệ thống quản lý hợp đồng bảo hiểm, hệ thống quản lý đại lý, hệ thống phần mềm kế toán, v.v... Đối với các nhân lực có trình độ cao, hiểu biết sâu về lĩnh vực bảo hiểm, có kinh nghiệm từ 3-5 năm ở các vị trí chủ chốt, lương tối thiểu từ 20 triệu đồng/tháng/người trở lên và để vận hành hệ thống này thì phải có tối thiểu 70-80 người làm việc. Thông thường, các doanh nghiệp bảo hiểm mới phải chi 2 tỷ đồng/tháng để duy trì hệ thống quản trị điều hành hoạt động. Đây là số tiền quá lớn đối với tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp có nguồn kinh phí chủ yếu từ ngân sách nhà nước. Trong khi đó, các tổ chức bảo hiểm vi mô có lợi thế sẵn về mạng lưới phân phối, sản phẩm bảo hiểm đơn giản có mức phí bảo hiểm thấp, việc triển khai có thể dựa trên những nền tảng sẵn có. Các yêu cầu cao về quản lý sẽ tạo nên sự cồng kềnh về bộ máy, chi phí, không tương xứng với doanh thu tạo ra. Trong khi đó, đối với việc thiết lập hệ thống thông tin tích hợp việc kiểm soát hợp đồng bảo hiểm và quản lý tài chính của các tổ chức đang triển khai bảo hiểm vi mô, chi phí là 100-200 triệu đồng cho thiết lập hệ thống, 30 triệu đồng/năm để bảo trì và nâng cấp. Đây là mức chi phí hợp lý đối với các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp. Quy định các điều kiện cơ bản về quản lý tài chính vừa giúp các tổ chức bảo hiểm vi mô trong việc thực hiện triển khai, vừa bảo đảm kiểm soát rủi ro trong việc phân phối bảo hiểm vi mô, tách biệt khỏi các hoạt động khác của tổ chức bảo hiểm vi mô. Việc quy định đầy đủ và yêu cầu cao về quản lý tài chính đối với tổ chức bảo hiểm vi mô tương tự như doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm là khó khả thi do cần có nguồn tài chính mạnh để đầu tư vào hạ tầng cơ sở, thuê nhân sự. Các hướng dẫn về trích lập dự phòng, đầu tư tài chính, quản lý tài chính kế toán sẽ hỗ trợ các tổ chức bảo hiểm vi mô trong việc thực hiện các yêu cầu quản lý tài chính, bảo đảm cam kết đối với khách hàng.
Tuy nhiên, để đảm bảo tính ổn định, bền vững tài chính cho doanh nghiệp bảo hiểm, Chương V Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010) quy định về tài chính, hạch toán kế toán và báo cáo tài chính rất cụ thể, chặt chẽ từ các yêu cầu về vốn pháp định, vốn điều lệ, ký quỹ, dự phòng nghiệp vụ, Quỹ dự trữ và Quỹ bảo vệ người được bảo hiểm đến các quy định về đầu tư vốn, thu, chi tài chính, năm tài chính, chế độ kế toán, kiểm toán, báo cáo tài chính, công khai báo cáo tài chính. Nội dung chính sách này quy định theo hướng rút gọn và thu hẹp các yêu cầu quản lý về tài chính, hạch toán kế toán và báo cáo tài chính (chỉ bao gồm: trích lập dự phòng, đầu tư tài chính, theo dõi kế toán và khả năng thanh toán). Do đó, chính sách cần tập trung phân tích kỹ để làm rõ tính thận trọng về tài chính, kế toán của chính sách, cơ sở khoa học, pháp lý và thực tiễn của việc thu hẹp yêu cầu quản lý tài chính, tính khả thi của chính sách khi áp dụng trên thực tế. Đồng thời, hoạt động bảo hiểm vi mô của các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp không vì mục tiêu lợi nhuận, chính sách cũng cần làm rõ mối quan hệ giữa hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận và mục đích của hoạt động đầu tư tài chính.
3.4. Sản phẩm bảo hiểm vi mô
Sản phẩm bảo hiểm vi mô là sản phẩm bảo hiểm hướng tới đối tượng khách hàng có thu nhập thấp. Vì vậy, sản phẩm bảo hiểm vi mô có những đặc điểm khác biệt nhất định so với sản phẩm bảo hiểm thông thường, phải đơn giản, dễ thẩm định, mức phí bảo hiểm thấp, phù hợp nhất với nhu cầu của cá nhân, hộ gia đình có thu nhập thấp. Các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp đều có thành viên với đặc điểm khác nhau về tuổi, giới tính, thu nhập, mục tiêu hoạt động... Việc quy định cụ thể loại sản phẩm bảo hiểm, đặc điểm sản phẩm bảo hiểm vi mô sẽ hạn chế sự chủ động, linh hoạt của các tổ chức bảo hiểm vi mô khi triển khai trên thực tế. Do đó, để đảm bảo tính chủ động, linh hoạt cho các tổ chức bảo hiểm vi mô triển khai sản phẩm bảo hiểm vi mô của mình, chính sách nên quy định theo hướng chỉ quy định các đặc điểm, tiêu chí, nguyên tắc cơ bản của sản phẩm bảo hiểm vi mô để tổ chức bảo hiểm vi mô căn cứ vào đặc điểm, tiêu chí, nguyên tắc này thiết kế sản phẩm bảo hiểm vi mô phù hợp tính chất, đặc điểm thành viên của tổ chức mình. Việc cho phép tổ chức bảo hiểm vi mô được phép triển khai tất cả các loại sản phẩm bảo hiểm và chủ động trong thiết kế sản phẩm giúp tổ chức bảo hiểm vi mô thuận lợi trong việc giới thiệu bán hàng và cung cấp nhiều lựa chọn cho khách hàng. Tuy nhiên, việc phát triển tất cả các loại sản phẩm bảo hiểm đòi hỏi chi phí quản lý cao hơn. Thông thường, tại một doanh nghiệp bảo hiểm, để phát triển 01 sản phẩm mới, doanh nghiệp phải đầu tư khoảng 1- 6 tỷ đồng để đầu tư hệ thống và đào tạo nhân viên, giới thiệu sản phẩm cho khách hàng theo. Đối với sản phẩm bảo hiểm phức tạp, chi phí này cao hơn. Việc quản lý rủi ro của nhiều sản phẩm cũng sẽ phức tạp hơn so với chỉ triển khai một số sản phẩm đơn giản. Bên cạnh đó, công tác đào tạo đội ngũ nhân viên, kênh phân phối cũng phải được chú trọng. Đồng thời, việc cho phép triển khai các sản phẩm bảo hiểm vi mô đa dạng sẽ đáp ứng nhu cầu khác nhau của người tham gia bảo hiểm, giúp giảm gánh nặng tài chính cho họ khi gặp rủi ro. Trường hợp có nhiều loại sản phẩm bảo hiểm mà công tác quản lý, hệ thống phần mềm và chất lượng phục vụ khách hàng không tương ứng thì sẽ dẫn đến những tranh chấp, mất uy tín, ảnh hưởng đến người tham gia bảo hiểm nói riêng và toàn thị trường nói chung.
3.5. Chính sách về đối tượng tham gia bảo hiểm vi mô
Do đối tượng tham gia bảo hiểm vi mô là người nghèo, cận nghèo, người có thu nhập thấp, do đó, chính sách tập trung phân tích làm rõ các vấn đề sau:
(i) Người nghèo, cận nghèo, người có thu nhập thấp là 3 khái niệm khác nhau, chính sách xác định rõ đối tượng tham gia bảo hiểm vi mô; tiêu chí, căn cứ để xác định các đối tượng này; đối tượng tham gia bảo hiểm vi mô của từng tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp là khác nhau;
(ii) Xác định rõ quyền và nghĩa vụ của đối tượng tham gia bảo hiểm (Ví dụ: quyền lựa chọn đối tượng được phép cung cấp bảo hiểm vi mô, yêu cầu giải thích các điều kiện, điều khoản bảo hiểm, cấp giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm, đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm, chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm…; nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm, kê khai đầy đủ, trung thực mọi chi tiết có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm, thông báo những trường hợp có thể làm tăng rủi ro hoặc làm phát sinh thêm trách nhiệm, áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất theo quy định...);
(iii) Đối tượng tham gia bảo hiểm có quyền lựa chọn đối tượng cung cấp bảo hiểm vi mô không vì theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 thì: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”;
(iv) Nhằm khuyến khích xã hội hóa bảo hiểm vi mô, đối tượng tham gia bảo hiểm vi mô có thể là tổ chức, cá nhân khác trong trường hợp tổ chức, cá nhân này mua bảo hiểm vi mô cho người nghèo, cận nghèo, người thu nhập thấp được không?.
3.6. Chính sách về các vấn đề khác được quy định tại Luật kinh doanh bảo hiểm
Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010) quy định rất nhiều vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh bảo hiểm như: Hợp đồng bảo hiểm (nội dung, hình thức, thời điểm phát sinh trách nhiệm, điều khoản loại trừ trách nhiệm, quyền, nghĩa vụ của bên bán bảo hiểm, quyền, nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm vô hiệu, chấm dứt hợp đồng, sửa đổi, bổ sung, chuyển nhượng hợp đồng, thời hạn yêu cầu trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường...); Tài chính, hạch toán kế toán và báo cáo tài chính (vốn pháp định, vốn điều lệ, kỹ quỹ, dự phòng nghiệp vụ, Quỹ dự trữ và Quỹ bảo vệ người được bảo hiểm, đầu tư vốn, thu, chi tài chính, năm tài chính, chế độ kế toán, kiểm toán, báo cáo tài chính, công khai báo cáo tài chính); Quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm; Khen thưởng và xử lý vi phạm... Để đảm bảo nội dung chính sách về bảo hiểm vi mô bao quát toàn bộ các vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói chung và triển khai bảo hiểm vi mô nói riêng, cần bổ sung các chính sách có nội dung đặc thù tại dự thảo Nghị định, đồng thời dẫn chiếu đến các quy định có nội dung chung tại Luật kinh doanh bảo hiểm.
C. KẾT LUẬN
Để đảm bảo tính bền vững cho việc triển khai bảo hiểm vi mô, cần nghiên cứu bổ sung quy định về bảo hiểm vi mô vào Luật kinh doanh bảo hiểm, tương tự như quy định về tài chính vi mô trong Luật các tổ chức tín dụng và có chính sách hỗ trợ từ Nhà nước để thúc đẩy loại hình này phát triển. Vì vậy, việc xây dựng Nghị định riêng về bảo hiểm vi mô cho các tổ chức chính trị-xã hội, xã hội-nghề nghiệp nói riêng tại thời điểm này sẽ tạo tiền đề xây dựng khung khổ pháp lý cho việc triển khai bảo hiểm vi mô nói chung trong thời gian tới. Điều này cũng phù hợp với một số nước trong khu vực như Ấn Độ, Philipines,.. khi ban hành cơ chế riêng để đẩy mạnh triển khai bảo hiểm vi mô.
An Nhiên