Quản trị công ty đại chúng theo Bộ nguyên tắc Quản trị công ty OECD - Một số kiến nghị cụ thể

20/03/2017
Kể từ khi triển khai thi hành quy định về quản trị công ty đại chúng tại khoản 2 Điều 28 Luật chứng khoán năm 2006 (được sửa đổi, bổ sung tại khoản 10 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chứng khoán năm 2010), Bộ Tài chính đã ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành  để điều chỉnh về quản trị công ty đại chúng (Quyết định số 12/2007/QĐ-BTC ngày 13/3/2007 về việc ban hành Quy chế nội bộ về quản trị công ty áp dụng cho các công ty niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán/Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, Quyết định số 15/2007/QĐ-BTC ngày 19/3/2007 về việc ban hành Điều lệ mẫu áp dụng cho các công ty niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán/Trung tâm Giao dịch Chứng khoán và Thông tư số 121/2012/TT-BTC ngày 26/7/2012 quy định về quản trị công ty áp dụng đối với công ty đại chúng). Thực tiễn thi hành pháp luật cho thấy các quy định của Luật chứng khoán và các văn bản quy phạm pháp luật do Bộ Tài chính ban hành đã tạo khuôn khổ pháp lý về quản trị công ty đại chúng và việc quản lý nhà nước có liên quan. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được thì các văn bản hướng dẫn thi hành cũng bộc lộ một số vấn đề bất cập, hạn chế đối với hoạt động quản trị công ty đại chúng cần được sửa đổi, bổ sung.
Trong thời gian qua, nhiều văn bản quy phạm pháp luật mới liên quan đến quản trị doanh nghiệp đã được ban hành như: Luật doanh nghiệp năm 2014, Luật đầu tư năm 2014, Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp năm 2014, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015... và các nghị định hướng dẫn thi hành các Luật này. Đặc biệt, Luật doanh nghiệp năm 2014 có nhiều điểm mới liên quan đến các nội dung quan trọng về quản trị công ty, ví dụ: quy định về thành viên Hội đồng quản trị độc lập (khoản 2 Điều 151 Luật doanh nghiệp), quy định về tiêu chuẩn thành viên Ban kiểm soát (Điều 163, 164 Luật doanh nghiệp), quy định về hai mô hình quản trị công ty để doanh nghiệp chọn tổ chức quản lý và hoạt động (Điều 134 Luật doanh nghiệp). Theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 thì việc Bộ Tài chính quy định các nội dung liên quan đến Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, đại hội đồng cổ đông, cổ đông... áp dụng đối với quản trị công ty đại chúng như các văn bản hướng dẫn thi hành như hiện nay là không còn phù hợp. Trong khi đó, theo quy định tại Điều 136 Luật chứng khoán năm 2006 (được sửa đổi, bổ sung năm 2010) thì Chính phủ có thẩm quyền hướng dẫn những nội dung cần thiết khác của Luật này để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước.
 Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 19 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2016) cũng giao Chính phủ ban hành Nghị định để quy định về các biện pháp để thực hiện các chính sách kinh tế, xã hội, tài chính, quyền và nghĩa vụ của công dân... Từ những căn cứ pháp lý nêu trên, Bộ Tư pháp cho rằng, để khắc phục được những bất cập, hạn chế trong các văn bản pháp luật hiện hành về quản trị công ty đại chúng, bảo đảm phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước trong bối cảnh cần phải tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về chứng khoán nói chung và quản trị công ty đại chúng nói riêng nhằm bảo đảm cho việc tái cấu trúc thị trường chứng khoán, đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, cải thiện môi trường đầu tư để thu hút đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh, công khai minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế, quốc tế, việc ban hành Nghị định của Chính phủ quy định về quản trị công ty đại chúng là cần thiết.
I. Mục tiêu, phương hướng hoàn thiện
  1. Mục tiêu
- Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất trong hệ thống pháp luật, đặc biệt Luật doanh nghiệp, Luật chứng khoán và Nghị định số 96/2015/NĐ-CP ngày 19/10/2015 quy định chi tiết một số điều của Luật doanh nghiệp;
- Bảo đảm tính tương thích và phù hợp với các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, đặc biệt là cam kết WTO;
- Bảo đảm tính tương thích và phù hợp với các thông lệ tốt nhất về quản trị công ty; đặc biệt là thông lệ được nhiều nước công nhận như 06 nguyên tắc về quản trị công ty của Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế (OECD);
- Bổ sung, sửa đổi các quy định tại văn bản pháp luật trước đây đảm bảo phù hợp với tình hình thực tiễn, đảm bảo tính khả thi của quy định nhằm tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển bền vững;
- Đưa các quy định về hành vi phát sinh chế tài xử phạt hành chính tại Thông tư số 121/2012/TT-BTC lên cấp Nghị định để đảm bảo tuân thủ quy định về ban hành văn bản pháp luật;
- Xây dựng một bộ quy định về quản trị công ty áp dụng riêng cho công ty đại chúng, trong đó có công ty niêm yết.
  1. Phương hướng
Nghị định về quản trị công ty áp dụng đối với công ty đại chúng cần được xây dựng căn cứ trên 02 cơ sở chính là Bộ nguyên tắc quản trị công ty tốt của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD và quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam về quản trị công ty. Bộ nguyên tắc quản trị Công ty của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD là Bộ nguyên tắc được các nước thành viên OECD đánh giá là chuẩn mực quốc tế cho các nhà hoạch định chính sách, nhà đầu tư, công ty và các bên có quyền lợi liên quan khác. Bộ Nguyên tắc đã đẩy mạnh tầm quan trọng của quản trị công ty và cung cấp hướng dẫn cụ thể cho các sáng kiến pháp lý và quản lý ở các quốc gia thuộc OECD và cả các quốc gia ngoài OECD. Bộ nguyên tắc bao gồm 6 nguyên tắc về quản trị công ty, cụ thể: (i) Đảm bảo cơ sở cho một khuôn khổ quản trị công ty hiệu quả; (ii) Quyền của cổ đông, đối xử bình đẳng giữa các cổ đông và các chức năng sở hữu cơ bản; (iii) Nhà đầu tư có tổ chức, thị trường chứng khoán và các tổ chức trung gian; (iv) Vai trò của các bên có quyền lợi liên quan trong quản trị công ty; (v) Công bố thông tin và tính minh bạch; (vi) Trách nhiệm của Hội đồng quản trị. Bộ 06 nguyên tắc này hiện nay được nhiều quốc gia trên thế giới sử dụng để xây dựng hệ thống quy định về quản trị công ty của quốc gia. Theo quy định tại khoản 2 Điều 28 Luật Chứng khoán thì quản trị công ty của công ty đại chúng bao gồm 04 nguyên tắc: (i) Bảo đảm cơ cấu quản trị hợp lý; bảo đảm hiệu quả hoạt động của Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát; (ii) Bảo đảm quyền lợi của cổ đông, những người có liên quan; (iii) Bảo đảm đối xử công bằng giữa các cổ đông; (iv) Công khai, minh bạch mọi hoạt động của công ty. Như vậy, về cơ bản, các nguyên tắc về quản trị công ty quy định tại Luật chứng khoán được xây dựng trên cơ sở Bộ nguyên tắc quản trị công ty của OECD. Do đó, việc xây dựng nội dung Nghị định về quản trị công ty trên cơ sở 06 nguyên tắc quản trị công ty của OECD đảm bảo phù hợp với quy định tại Luật chứng khoán.
Trên cơ sở Bộ nguyên tắc quản trị công ty của OECD, tác giả chọn ra 05 vấn đề quan trọng cần phân tích hạn chế, vướng mắc và xác định phương án giải quyết cho từng vấn đề. Cụ thể:
(i) Quy chế nội bộ về quản trị công ty;
(ii) Quy định về thành viên Hội đồng quản trị;
(iii) Quy định về lượng công ty mà một cá nhân được tham gia thành viên Hội đồng quản trị;
(iv) Về ngăn ngừa xung đột lợi ích - giao dịch với cổ đông, thành viên Hội đồng quản trị, Kiểm soát viên, Giám đốc (Tổng giám đốc), các cán bộ quản lý khác và người có liên quan của các đối tượng này;
(v) Báo cáo và công bố thông tin.
II. Một số kiến nghị cụ thể
1. Về Quy chế nội bộ về quản trị công ty
Quy chế nội bộ về quản trị công ty (Quy chế nội bộ) là một trong những công cụ quan trọng trong quản trị công ty, giúp cổ đông tuy không tham gia trực tiếp vào quá trình điều hành doanh nghiệp nhưng có khả năng giám sát hoạt động của doanh nghiệp tốt hơn thông qua các quy định cụ thể (như quy trình họp Đại hội đồng cổ đông, bầu thành viên Hội đồng quản trị, Kiểm soát viên...). Theo quy định hiện hành tại Thông tư số 121/2012/TT-BTC, Hội đồng quản trị của công ty đại chúng quy mô lớn và công ty niêm yết “có trách nhiệm xây dựng và ban hành Quy chế nội bộ về quản trị công ty”[1] và Quy chế nội bộ phải bao gồm những nội dung lớn như quy trình họp Đại hội đồng cổ đông, quy trình họp Hội đồng quản trị, trình tự bầu, bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ quản lý... Tuy nhiên, trong quá trình triển khai quy định này, nhiều doanh nghiệp còn gặp khó khăn trong việc vận dụng được những thông lệ tốt về quản trị công ty đồng thời đảm bảo phù hợp với các quy định của pháp luật để xây dựng Quy chế nội bộ của công ty mình.
Nhằm đảm bảo cổ đông công ty đại chúng có thể thực hiện việc giám sát hoạt động của doanh nghiệp thông qua các quy định cụ thể về quản trị công ty, Nghị định về quản trị công ty áp dụng đối với công ty đại chúng cần quy định việc xây dựng Quy chế nội bộ áp dụng cho toàn bộ các công ty đại chúng, thay vì chỉ quy định áp dụng đối với các công ty đại chúng quy mô lớn và các công ty niêm yết như trước đây. Đồng thời, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước với vai trò là cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán; trực tiếp quản lý, giám sát hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán; quản lý các hoạt động dịch vụ thuộc lĩnh vực chứng khoán, thị trường chứng khoán theo quy định của pháp luật[2] cần xây dựng Quy chế nội bộ mẫu, trong đó có quy định chi tiết các nội dung cơ bản về trình tự, thủ tục họp Đại hội đồng cổ đông, họp Hội đồng quản trị; trình tự bầu thành viên Hội đồng quản trị, Kiểm soát viên, cán bộ quản lý; quy trình phối hợp hoạt động giữa Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và Ban điều hành... Nội dung Quy chế nội bộ mẫu phù hợp với các nguyên tắc và quy định hiện hành về quản trị công ty, tiếp cận các thông lệ tốt về quản trị công ty trên thế giới. Quy trình thông qua Quy chế nội bộ được thực hiện theo phương án: Hội đồng quản trị công ty đại chúng trình Đại hội đồng cổ đông công ty thông qua toàn bộ Quy chế nội bộ (ban hành lần đầu). Khi sửa đổi, bổ sung các nội dung tại Quy chế nội bộ, Hội đồng quản trị phải báo cáo Đại hội đồng cổ đông tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông gần nhất.
Việc ban hành Quy chế nội bộ mẫu sẽ giúp các công ty đại chúng có cơ sở tham chiếu để tự xây dựng Quy chế nội bộ đảm bảo phù hợp với các nguyên tắc và quy định hiện hành về quản trị công ty. Ngoài ra Quy chế nội bộ mẫu có các nội dung định hướng theo thông lệ tốt về quản trị công ty, theo đó, các công ty đại chúng có thể tự quy định các nội dung cụ thể phù hợp với đặc thù của doanh nghiệp mình và tiếp cận với các thông lệ quốc tế. Các nội dung cơ bản của Quy chế nội bộ được xây dựng theo Quy chế nội bộ mẫu và được Đại hội đồng cổ đông thông qua lần đầu và khi sửa đổi Quy chế nội bộ, Hội đồng quản trị phải báo cáo Đại hội đồng cổ đông kỳ gần nhất. Do đó, phương án này sẽ không phát sinh chi phí đối với doanh nghiệp so với trường hợp lấy ý kiến Đại hội đồng cổ đông thông từng vấn đề liên quan đến Quy chế nội bộ. Tuy nhiên, việc trình Đại hội đồng cổ đông thông qua toàn bộ Quy chế nội bộ sẽ hạn chế sự tham gia, góp ý chi tiết của cổ đông đối với từng nội dung cụ thể.
2. Về thành viên Hội đồng quản trị
Theo quy định của Luật doanh nghiệp năm 2014 thì một số quy định về thành viên Hội đồng quản trị đang “cao hơn” so với quy định tại Thông tư số 121/2012/TT-BTC, điều này sẽ tạo thêm khó khăn trong việc áp dụng đối với công ty đại chúng. Cụ thể:
- Khoản 2 Điều 151[3] Luật doanh nghiệp năm 2014 quy định tiêu chuẩn và điều kiện làm thành viên độc lập Hội đồng quản trị đối với công ty cổ phần hoạt động theo mô hình không có Ban kiểm soát tại điểm b khoản 1 Điều 134 Luật doanh nghiệp. Theo đó, tiêu chuẩn và điều kiện làm thành viên độc lập Hội đồng quản trị tại Luật doanh nghiệp năm 2014 đang “vênh” hơn so với quy định điều kiện thành viên độc lập được quy định tại Thông tư số 121/2012/TT-BTC. Tuy nhiên, theo kết quả giám sát tại 02 Sở Giao dịch Chứng khoán, số lượng thành viên độc lập Hội đồng quản trị tại nhiều công ty niêm yết tại 02 Sở Giao dịch Chứng khoán còn chưa đạt được tỷ lệ theo quy định tại Thông tư số 121/2012/TT-BTC. Tại Sở Giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh thời điểm 30/7/2016 có khoảng 75% số lượng doanh nghiệp niêm yết và tại Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội thời điểm 31/12/2015 có gần 60% số lượng doanh nghiệp niêm yết có số lượng thành viên Hội đồng quản trị độc lập theo quy định. Như vậy, việc quy định về điều kiện, tiêu chuẩn thành viên độc lập Hội đồng quản trị “cao hơn” so với quy định tại Thông tư số 121/2012/TT-BTC sẽ tạo thêm khó khăn trong việc áp dụng đối với công ty đại chúng.
- Khoản 3 Điều 156[4] Luật doanh nghiệp 2014 quy định Hội đồng quản trị phải triệu tập Đại hội đồng cổ đông để bầu bổ sung thành viên Hội đồng quản trị trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày số lượng thành viên Hội đồng quản trị giảm quá 1/3 hoặc số lượng thành viên độc lập Hội đồng quản trị không đáp ứng tỷ lệ quy định tại khoản 1 Điều 134 Luật doanh nghiệp 2014 “ít nhất 20% thành viên Hội đồng quản trị là thành viên độc lập” đối với công ty hoạt động theo mô hình không có Ban kiểm soát. Đối với các trường hợp khác, công ty phải bầu bổ sung thành viên Hội đồng quản trị tại Đại hội đồng cổ đông gần nhất. Thông tư 121/2012/TT-BTC hiện nay chưa có quy định về nội dung này. Việc chuẩn bị tổ chức một cuộc họp Đại hội đồng cổ đông phải mất nhiều thời gian chuẩn bị, công bố thông tin đúng quy định, tối thiếu là 60 ngày. Tuy nhiên, thực tiễn tại nhiều công ty đại chúng, các chức danh thành viên Hội đồng quản trị không điều hành hoặc thành viên độc lập Hội đồng quản trị đảm nhiệm các vị trí đứng đầu tại các tiểu ban đặc thù. Trường hợp thiếu các thành viên Hội đồng quản trị này sẽ dẫn đến “khoảng trống” trong công tác điều hành, giám sát doanh nghiệp.
Nhằm tạo điều kiện để Hội đồng quản trị công ty phát huy được vai trò giám sát hoạt động quản lý điều hành doanh nghiệp một cách hiệu quả; đảm bảo khả năng áp dụng trong thực tế đối với công ty đại chúng. Tác giả kiến nghị hoàn thiện các quy định này tại Nghị định về quản trị công ty áp dụng đối với công ty đại chúng như sau:
- Đối với tiêu chuẩn thành viên độc lập Hội đồng quản trị, để đảm bảo tính khả thi, nhất là trong thời điểm hiện nay khi thị trường lao động cho đối tượng này còn khá hạn chế và chưa có Học viện quản trị công ty để đào tạo chuyên nghiệp cho các đối tượng này thì Nghị định nên quy định theo hướng áp dụng các điều kiện đối với thành viên độc lập Hội đồng quản trị tương tự như các quy định tại Thông tư số 121/2012/TT-BTC. Quy định này cũng phù hợp với Luật doanh nghiệp năm 2014 (khoản 2 Điều 151 Luật doanh nghiệp năm 2014 có quy định mở trong trường hợp pháp luật về chứng khoán có quy định khác).
- Đối với quy định tại khoản 3 Điều 156 Luật doanh nghiệp năm 2014, để đảm bảo hoạt động của Hội đồng quản trị liên tục và hiệu quả, phù hợp với quy định của Luật doanh nghiệp năm 2014, Nghị định về quản trị công ty áp dụng đối với công ty đại chúng có thể bổ sung quy định về thành viên Hội đồng quản trị “tạm thời”, theo đó, trường hợp thành viên Hội đồng quản trị bị mất tư cách thành viên theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty, Hội đồng quản trị có thể bổ nhiệm thành viên Hội đồng quản trị tạm thời theo trình tự bổ nhiệm quy định tại Điều lệ công ty, Quy chế nội bộ về quản trị công ty. Việc bầu mới thành viên Hội đồng quản trị thay thế phải được thực hiện tại Đại hội đồng cổ đông gần nhất; Đối với trường hợp số lượng thành viên Hội đồng quản trị tạm thời vượt quá 1/3 số lượng thành viên Hội đồng quản trị quy định tại Điều lệ công ty, Hội đồng quản trị phải triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông để bầu bổ sung thành viên Hội đồng quản trị trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày số lượng thành viên Hội đồng quản trị giảm so với quy định của pháp luật và Điều lệ công ty.
3. Về số lượng công ty mà một cá nhân được tham gia thành viên Hội
đồng quản trị
Theo quy định tại khoản 3 Điều 30[5] Thông tư số 121/2012/TT-BTC, thành viên Hội đồng quản trị của một công ty niêm yết hoặc công ty đại chúng quy mô lớn không được đồng thời là thành viên Hội đồng quản trị của trên năm (05) công ty khác. Quy định hạn chế này tạo ra khó khăn trong việc quá trình thực thi. Cụ thể:
+ Thực tế hiện nay, ở Việt Nam, các đối tượng này  tương đối ít, đặc biệt là các thành viên độc lập Hội đồng quản trị (thường là các chuyên gia trong lĩnh vực kinh tế, tài chính). Trách nhiệm của các thành viên này khi tham gia Hội đồng quản trị bị ràng buộc bởi các quy định chặt chẽ tại Luật doanh nghiệp cũng như Luật chứng khoán. Do đó, bản thân các thành viên này phải cân nhắc nhiều yếu tố khi họ quyết định tham gia là thành viên độc lập Hội đồng quản trị của các công ty. Bên cạnh đó, hiện nay Việt Nam chưa có một cơ sở đào tạo chuyên nghiệp kiến thức và kỹ năng làm thành viên Hội đồng quản trị, như các nước trên thế giới cũng như trong khu vực ASEAN.
Để đảm bảo khả thi, phù hợp với Luật doanh nghiệp năm 2014, Nghị định về quản trị công ty áp dụng đối với công ty đại chúng nên quy định theo hướng nâng số lượng công ty mà một thành viên Hội đồng quản trị được phép đồng thời là thành viên Hội đồng quản trị là 10 công ty, trong đó không quá 05 công ty niêm yết để đảm bảo phù hợp với tình hình thực tiễn Việt Nam và thông lệ quốc tế. Quy định này cũng phù hợp với nguyên tắc quản trị công ty tốt của OECD và thông lệ về quản trị công ty của các nước trên thế giới. Ví dụ: Ireland và Thụy Sỹ (tối đa 4 công ty), Ấn Độ (thành viên độc lập Hội đồng quản trị và thành viên quản trị không điều hành chỉ được làm thành viên Hội đồng quản trị tối đa 7 công ty đại chúng), Trung Quốc (một cá nhân chỉ được tham gia tối đa 05 Hội đồng quản trị), Bangladesh (một cá nhân chỉ được làm thành viên độc lập Hội đồng quản trị của tối đa 03 công ty niêm yết)…
4. Về việc ngăn ngừa xung đột lợi ích: giao dịch với cổ đông, thành viên HĐQT, thành viên Ban Kiểm toán nội bộ, Kiểm soát viên, Tổng Giám đốc (Giám đốc), các cán bộ quản lý khác và người có liên quan của các đối tượng này
Các quy định tại Thông tư số 121/2012/TT-BTC được thiết kế theo hướng bảo vệ quyền lợi của các cổ đông nhỏ lẻ như: “Công ty đại chúng không được cung cấp các khoản vay hoặc bảo lãnh cho các cổ đông và những người có liên quan” (khoản 3 Điều 24). Quy định này nhằm ngăn chặn trường hợp công ty cho các cổ đông lớn vay tiền hoặc bảo lãnh cho các cổ đông hay việc phát hành cổ phần không thu tiền (ghi công nợ phải thu các cổ đông, đặc biệt là các cổ đông là cán bộ công nhân viên công ty). Tuy nhiên, quy định này đang gây khó khăn cho các công ty hoạt động theo nhóm công ty (công ty hoạt động theo mô hình công ty mẹ - con, tập đoàn kinh tế), các tổ chức tín dụng, cụ thể:
- Đối với các công ty hoạt động theo nhóm công ty (công ty hoạt động theo mô hình công ty mẹ - con, tập đoàn kinh tế) với đặc thù hỗ trợ nhau trong hoạt động đặc biệt là hỗ trợ về tài chính, sự liên kết theo nhóm giúp các doanh nghiệp hoạt động vững mạnh hơn. Quy định hiện hành đang triệt tiêu ưu điểm này của nhóm công ty.
- Đối với các tổ chức tín dụng thì một trong những nghiệp vụ chính của các tổ chức tín dụng là hoạt động cho vay và bảo lãnh. Quy định không được thực hiện nghiệp vụ cho vay hay bảo lãnh đối với các đối tượng là cổ đông hay người liên quan đến các cổ đông đó khiến các tổ chức tín dụng bị giảm số lượng khách hàng. Đồng thời, quy định này cũng không đạt được mục tiêu là bảo vệ quyền lợi của cổ đông khi việc không cho vay hay bảo lãnh sẽ làm giảm doanh thu, lợi nhuận của tổ chức tín dụng, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của cổ đông.
- Đối với trường hợp công ty đại chúng được cung cấp khoản vay, bảo lãnh vay cho cổ đông là công ty con trong trường hợp công ty con là các công ty không có cổ phần, phần vốn góp nhà nước nắm giữ và đã thực hiện góp vốn mua cổ phần công ty đại chúng trước ngày 1/7/2015, quy định hiện hành chưa ngoại trừ trường hợp này. Điều này không phù hợp với quy định tại khoản 6 Điều 16 Nghị định số 96/2015/NĐ-CP ngày 19/10/2015 quy định chi tiết một số điều của Luật doanh nghiệp năm 2014: “Các công ty không có cổ phần, phần vốn góp nhà nước nắm giữ đã thực hiện góp vốn, mua cổ phần trước ngày 01/7/2015 có quyền mua bán, chuyển nhượng, tăng, giảm phần vốn góp, số cổ phần nhưng không được làm tăng tỷ lệ sở hữu chéo hiện có”.
Việc công ty cho cổ đông vay hoặc bảo lãnh là một hình thức chuyển vốn từ công ty sang cổ đông, có thể coi là hình thức khác để rút vốn cổ phần đã góp. Theo quy định tại khoản 1 Điều 155 Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì nghĩa vụ của cổ đông là “không được rút vốn đã góp bằng cổ phần phổ thông ra khỏi công ty dưới mọi hình thức, trừ trường hợp được công ty hoặc người khác mua lại cổ phần”, khoản 2 Điều 189 Luật doanh nghiệp năm 2014 thì “Công ty con không được đầu tư góp vốn, mua cổ phần của công ty mẹ”. Do đó, để đảm bảo nguyên tắc đối xử bình đẳng giữa các cổ đông “mỗi cổ phần của cùng một loại đều tạo cho người sở hữu nó các quyền, nghĩa vụ và lợi ích ngang nhau” (khoản 5 Điều 113 Luật Doanh nghiệp năm 2014); bảo vệ cổ đông nhỏ, tránh việc cổ đông lớn là công ty mẹ sử dụng lợi thế là cổ đông lớn để buộc công ty con cấp khoản vay hoặc bảo lãnh đối với công ty mẹ; tránh thất thoát vốn của công ty,., Nghị định về quản trị công ty áp dụng đối với công ty đại chúng cần đưa ra các quy định cụ thể để kiểm soát giao dịch giữa công ty đại chúng với cổ đông, thành viên Hội đồng quản trị, kiểm soát viên, Giám đốc (Tổng giám đốc), các cán bộ quản lý khác và người có liên quan của các đối tượng này, như:
“1. Công ty đại chúng không được cung cấp khoản vay hoặc bảo lãnh cho cổ đông là cá nhân và người có liên quan của cổ đông đó là cá nhân, trừ trường hợp công ty đại chúng là tổ chức tín dụng.
2. Công ty đại chúng không được cung cấp khoản vay hoặc bảo lãnh cho cổ đông là tổ chức và người có liên quan của cổ đông đó là cá nhân, trừ các trường hợp sau đây:
a) Công ty đại chúng là tổ chức tín dụng;
b) Cổ đông là công ty con trong trường hợp công ty con là các công ty không có cổ phần, phần vốn góp nhà nước nắm giữ và đã thực hiện góp vốn, mua cổ phần của công ty đại chúng trước ngày 01 tháng 7 năm 2015 theo quy định tại khoản 6 Điều 16 Nghị định số 96/2015/NĐ-CP ngày 19/10/2015 quy định chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp.
3. Công ty đại chúng không được cung cấp khoản vay hoặc bảo lãnh cho người có liên quan của cổ đông là tổ chức, trừ các trường hợp sau đây:
a) Công ty đại chúng là tổ chức tín dụng;
b) Công ty đại chúng và tổ chức là người có liên quan của cổ đông là các công ty trong cùng tập đoàn hoặc các công ty hoạt động theo nhóm công ty, bao gồm công ty mẹ - công ty con, tập đoàn kinh tế và giao dịch này phải được Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị thông qua theo quy định tại Điều lệ công ty;
c) Trường hợp pháp luật chuyên ngành có quy định khác.”
Quy định này không chỉ phù hợp với Luật doanh nghiệp năm 2014 mà còn phù hợp với thông lệ quốc tế: Việc cấm công ty con thực hiện bảo lãnh, cho vay công ty mẹ là nguyên tắc phổ biến tại các nước có thông lệ quản trị công ty tốt trên thế giới như Anh, Ireland, Thổ Nhỹ Kỳ, Ấn độ, Singapore...
5. Về việc báo cáo và công bố thông tin
Luật doanh nghiệp năm 2014 bổ sung một số quy định mới liên quan đến báo cáo và công bố thông tin như: việc lựa chọn mô hình tổ chức quản lý công ty, quy định về thù lao của thành viên Hội đồng quản trị và tiền lương của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý khác được tính vào chi phí kinh doanh của công ty theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp và phải được thể hiện thành mục riêng trong báo cáo tài chính hàng năm của công ty, phải báo cáo Đại hội đồng cổ đông tại cuộc họp thường niên... Tuy nhiên, các các nội dung nêu trên chưa được quy định cụ thể tại văn bản quy định về quản trị công ty áp dụng cho các công ty đại chúng.
Xuất phát từ thị trường chứng khoán Việt Nam cũng như kinh nghiệm của các nước có thị trường chứng khoán phát triển trên thế giới, một trong những yếu tố quan trọng giúp thị trường chứng khoán phát triển và bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư là minh bạch thông tin trên thị trường chứng khoán. Thực tế, các nhà đầu tư Việt Nam tham gia thị trường chủ yếu là nhà đầu tư cá nhân và tâm lý đầu tư thường diễn ra theo số đông nên mức độ ảnh hưởng của thông tin sẽ càng lớn. Vì vậy, đảm bảo tính công khai, minh bạch của thị trường chứng khoán, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về thông tin cho các nhà đầu tư tham gia thị trường, Nghị định về quản trị công ty áp dụng đối với công ty đại chúng cần bổ sung và cụ thể hóa các quy định về báo cáo và công bố thông tin như:
- Công ty đại chúng phải báo cáo Ủy ban chứng khoán Nhà nước,Sở Giao dịch Chứng khoán và công bố thông tin về mô hình tổ chức quản lý hoạt động công ty;
- Công bố tiền lương của Tổng giám đốc trong Báo cáo tài chính năm và báo cáo Đại hội đồng cổ đông thường niên theo quy định tại khoản 3 Điều 158 Luật doanh nghiệp năm 2014;
- Bổ nhiệm ít nhất một cán bộ chuyên trách về công bố thông tin của công ty.
Các quy định này đảm bảo thông tin được công bố kịp thời cho các nhà đầu tư biết rõ về việc thay đổi mô hình tổ chức quản lý của công ty để có chiến lược đầu tư phù hợp, minh bạch thu nhập của người lãnh đạo đứng đầu công ty, tạo niềm tin về tính chính xác của khoản thu nhập cho cổ đông và các nhà đầu tư được biết, đảm bảo cơ chế liên lạc thông suốt giữa cổ đông với công ty.
                                                                                      An Nhiên
 
[1] Điều 31. Quy chế nội bộ về quản trị công ty
1. Hội đồng quản trị có trách nhiệm xây dựng và ban hành Quy chế nội bộ về quản trị công ty. Quy chế nội bộ về quản trị công ty không được trái với các nguyên tắc và quy định hiện hành về quản trị công ty. Quy chế nội bộ được công bố trên trang thông tin điện tử của công ty. Quy chế nội bộ về quản trị công ty gồm các nội dung chủ yếu sau:
a) Trình tự, thủ tục về triệu tập và biểu quyết tại Đại hội đồng cổ đông;
b) Trình tự, thủ tục đề cử, ứng cử, bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm thành viên Hội đồng quản trị;
c) Trình tự, thủ tục tổ chức họp Hội đồng quản trị;
d) Trình tự, thủ tục lựa chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ quản lý;
đ) Quy trình, thủ tục phối hợp hoạt động giữa Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và Giám đốc (Tổng giám đốc) điều hành;
e) Quy định về đánh giá hàng năm đối với hoạt động, khen thưởng và kỷ luật đối với thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát, Giám đốc (Tổng giám đốc) điều hành và các cán bộ quản lý khác;
g) Quy trình, thủ tục về việc thành lập và hoạt động của các tiểu ban thuộc Hội đồng quản trị.
[2] Khoản 1 Điều 1 Quyết định Số 48/2015/QĐ-TTg ngày 08/10/2015 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước trực thuộc Bộ Tài chính.
[3] 2. Thành viên độc lập Hội đồng quản trị theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 134 của Luật này có các tiêu chuẩn và điều kiện sau đây, trừ trường hợp pháp luật về chứng khoán có quy định khác:
a) Không phải là người đang làm việc cho công ty, công ty con của công ty; không phải là người đã từng làm việc cho công ty, công ty con của công ty ít nhất trong 03 năm liền trước đó.
b) Không phải là người đang hưởng lương, thù lao từ công ty, trừ các khoản phụ cấp mà thành viên Hội đồng quản trị được hưởng theo quy định;
c) Không phải là người có vợ hoặc chồng, cha đẻ, cha nuôi, mẹ đẻ, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, anh ruột, chị ruột, em ruột là cổ đông lớn của công ty; là người quản lý của công ty hoặc công ty con của công ty;
d) Không phải là người trực tiếp hoặc gián tiếp sở hữu ít nhất 1% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết của công ty;
đ) Không phải là người đã từng làm thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát của công ty ít nhất trong 05 năm liền trước đó.
[4]  3. Hội đồng quản trị phải triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông để bầu bổ sung thành viên Hội đồng quản trị trong trường hợp sau đây:
a) Số thành viên Hội đồng quản trị bị giảm quá một phần ba so với số quy định tại Điều lệ công ty. Trường hợp này, Hội đồng quản trị phải triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày số thành viên bị giảm quá một phần ba;
b) Số lượng thành viên độc lập Hội đồng quản trị giảm xuống, không bảo đảm tỷ lệ theo quy định tại khoản 1 Điều 134 của Luật này.
Trường hợp khác, tại cuộc họp gần nhất, Đại hội đồng cổ đông bầu thành viên mới thay thế thành viên Hội đồng quản trị đã bị miễn nhiệm, bãi nhiệm.
[5] 3. Thành viên Hội đồng quản trị của một công ty không được đồng thời là thành viên Hội đồng quản trị của trên năm (05) công ty khác, trừ trường hợp là thành viên Hội đồng quản trị của các công ty trong cùng tập đoàn hoặc các công ty hoạt động theo nhóm công ty, bao gồm công ty mẹ - công ty con, tập đoàn kinh tế hoặc là người đại diện của công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư chứng khoán.