Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 ra đời đã đánh dấu nhiều thay đổi cơ bản, khắc phục được nhiều điểm bất cập, thiếu sót trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004. Đối với hoạt động trả lại đơn khởi kiện của Tòa án, Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 đã bổ sung thêm một số nội dung rất tiến bộ, mở ra hành lang pháp lý cho Viện kiểm sát nhân dân trong thực hiện hoạt động này.
Theo Điều 192, Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 quy định những trường hợp sau thì Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện:
Thứ nhất, người khởi kiện không có quyền khởi kiện hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Theo Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 những người được quy định tại Điều 186 và Điều 187 là những người có quyền khởi kiện vụ án dân sự. Năng lực hành vi tố tụng dân sự được quy định tại Điều 69, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Thứ hai, chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật.
Chưa có đủ điều kiện khởi kiện là trường hợp pháp luật có quy định về các điều kiện khởi kiện nhưng người khởi kiện đã khởi kiện đến Tòa án khi còn thiếu một trong các điều kiện đó;
Thứ ba, sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp vụ án mà Tòa án bác đơn yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu và theo quy định của pháp luật được quyền khởi kiện lại;
Thứ tư, hết thời hạn mà người khởi kiện không nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí cho Tòa án, trừ trường hợp người khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí hoặc có trở ngại khách quan, sự kiện bất khả kháng.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 192 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 thì “Thẩm phán dự tính số tiền tạm ứng án phí, ghi vào giấy báo và giao cho người khởi kiện để họ nộp tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được giấy báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí và nộp cho Tòa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí”.
Thứ năm, vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại Điều 26, 28, 30, 32, 34, 35, 36, 37, 38, 39, 40 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
Thứ sáu, người khởi kiện không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của Thẩm phán quy định tại khoản 2 Điều 193 của Bộ luật này.
Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú làm cho người khởi kiện không biết được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện thì Thẩm phán không trả lại đơn khởi kiện mà xác định người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình giấu địa chỉ và tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.
Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện không ghi đầy đủ, cụ thể hoặc ghi không đúng tên, địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà không sửa chữa, bổ sung theo yêu cầu của Thẩm phán thì Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện;
Thứ bảy, người khởi kiện rút đơn khởi kiện
Khi trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện, Thẩm phán phải có văn bản nêu rõ lý do trả lại đơn khởi kiện, đồng thời gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp. Đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ mà Thẩm phán trả lại cho người khởi kiện phải được sao chụp và lưu tại Tòa án để làm cơ sở giải quyết khiếu nại, kiến nghị khi có yêu cầu.
Hậu quả trả lại đơn khởi kiện theo Bộ luật dân sự năm 2015.
Theo khoản 3, Điều 192 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 thì đương sự có quyền nộp lại đơn khởi kiện trong các trường hợp sau:
Người khởi kiện đã có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự;
Yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà trước đó Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu mà theo quy định của pháp luật được quyền khởi kiện lại;
Đã có đủ điều kiện khởi kiện;
Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật: là các trường hợp trong Bộ luật tố tụng dân sự chưa quy định nhưng đã được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật khác hoặc sau khi Bộ luật tố tụng dân sự có hiệu lực thi hành mới được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành sau đó hoặc trong các điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Ví dụ 1: Trường hợp Tòa án tiến hành hòa giải đoàn tụ thành theo quy định tại Điều 54 của Luật Hôn nhân và Gia đình và đã ra quyết định công nhận sự thỏa thuận về việc hòa giải đoàn tụ thành giữa các đương sự. Trong thời gian đoàn tụ, các đương sự lại phát sinh mâu thuẫn và có đơn xin ly hôn yêu cầu Tòa án giải quyết, thì Tòa án căn cứ vào Điều 51 của Luật Hôn nhân và Gia đình để thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.
Ví dụ 2
: Trường hợp Tòa án đã bác đơn xin ly hôn của người chồng xin ly hôn vợ đang có thai hoặc đang nuôi con dưới mười hai tháng tuổi, thì Tòa án chỉ thụ lý lại vụ án xin ly hôn của người chồng khi đã đáp ứng đủ điều kiện khởi kiện quy định tại khoản 3 Điều 51 của Luật Hôn nhân và Gia đình.
Đối với những vụ án dân sự mà trước ngày 01-01-2017, Tòa án đã đình chỉ giải quyết vụ án vì lý do "thời hiệu khởi kiện đã hết" nhưng theo quy định tại khoản 1 Điều 623, điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015 thì thời hiệu khởi kiện vụ án đó vẫn còn. Trường hợp này người khởi kiện có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015 và điểm d khoản 3 Điều 192 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Đối với những vụ án dân sự yêu cầu chia tài sản chung là di sản thừa kế đã hết thời hiệu mà trước ngày 01-01-2017 Tòa án đã đình chỉ giải quyết vụ án vì lý do chưa đủ điều kiện khởi kiện nay người khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế thì Tòa án xem xét, thụ lý theo thủ tục chung.
So với Bộ luật tố tụng dân sự 2004 sửa đổi bổ sung 2011, Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 bổ sung thêm 2 trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện: Không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của Thẩm phán quy định tại khoản 2 Điều 193 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; Người khởi kiện rút đơn khởi kiện. Ngoài ra, Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 cũng đã giải thích rõ như thế nào là trường hợp chưa đủ điều kiện khởi kiện. Về thủ tục trả lại đơn: Khoản 2 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 bổ sung thủ tục sao lại và lưu tại Tòa án đơn khởi kiện và các tài liệu liên quan khi trả lại đơn khởi kiện để làm cơ sở giải quyết khiếu nại, kiến nghị khi có yêu cầu. Ngoài ra, Điều 194 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 cũng nâng thời gian người khởi kiện có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến kiến nghị việc trả lại đơn khởi kiện lên 10 ngày kể từ ngày nhận được thông báo trả lại đơn khởi kiện.
Vì vậy, nội dung bài viết này, tác giả xin tập trung phân tích cơ sở pháp lý và bàn về biện pháp thực hiện để nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát thông báo trả lại đơn khởi kiện của Tòa án.
Khoản 2 Điều 168 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 sửa đổi bổ sung 2011 quy định
“Khi trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện, Tòa án phải có văn bản ghi rõ lý do trả lại đơn khởi kiện, đồng thời gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp”. Văn bản ghi rõ lý do trả lại đơn khởi kiện trên thực tế chính là Thông báo trả lại đơn khởi kiện của Tòa án. Tuy nhiên, theo quy định này, hoạt động kiểm sát Thông báo trả lại đơn khởi kiện của Tòa án chỉ dừng lại ở mức độ kiểm tra về hình thức của hoạt động trả lại đơn, tức là kiểm tra xem Tòa án có ra văn bản ghi rõ lý do trả lại đơn khởi kiện không? Còn thực chất, với cách quy định này, Viện kiểm sát không có cơ sở pháp lý để kiểm tra xem lý do trả lại đơn được nêu trong văn bản của Tòa án có đúng căn cứ, quy định pháp luật không? Bởi vì, thực tế khi Tòa án trả lại đơn khởi kiện thì cũng trả lại toàn bộ tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện. Muốn biết được lý do trả lại đơn có đúng quy định hay không, Kiểm sát viên phải nghiên cứu toàn bộ tài liệu, chứng cứ gửi kèm theo đơn khởi kiện. Nhưng khi nhận được Thông báo trả lại đơn khởi kiện, Kiểm sát viên dẫu có muốn cũng không thể nghiên cứu được vì tòa án không còn lưu giữ những tài liệu đó. Vì vậy, không thể đánh giá được, hoạt động trả lại đơn khởi kiện của Tòa án có chính xác, có căn cứ pháp luật hay không. Do đó, phải nhìn nhận một cách khách quan là trước khi Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, việc kiểm sát hoạt động trả lại đơn khởi kiện của Tòa án vẫn chỉ được thực hiện một cách hình thức.
Khắc phục được bất cập lớn nhất của Điều 168 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi bổ sung 2011, khoản 2 Điều 194 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 đã bổ sung thêm thủ tục mới:
“Đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ mà Thẩm phán trả lại cho người khởi kiện phải được sao chụp và lưu tại Tòa án để làm cơ sở giải quyết khiếu nại, kiến nghị khi có yêu cầu”.
Theo quy định này, Thẩm phán buộc phải sao chụp và lưu tại Tòa án toàn bộ đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ đã trả lại cho người khởi kiện. Như đã phân tích ở trên, toàn bộ khó khăn vướng mắc do thiếu cơ sở pháp lý để Viện kiểm sát nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt động trả lại đơn khởi kiện của Tòa án đã được tháo gỡ. Trong trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát hoàn toàn có thể nghiên cứu hồ sơ lưu tại Tòa án để xem xét, đánh giá tính hợp pháp, có căn cứ của việc Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện. Chỉ có như vậy, Viện kiểm sát mới thực hiện được một cách hiệu quả và thực chất quyền năng kiến nghị của mình để hoạt động trả lại đơn khởi kiện của Tòa án được thẩm định, kiểm tra lại một lần nữa, bảo đảm tính minh bạch, rõ ràng.
Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 mở ra hành lang pháp lý để đảm bảo thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát. Trên cơ sở quy định của pháp luật, quy chế nghiệp vụ của ngành kiểm sát, nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động kiểm sát trả lại đơn khởi kiện của Tòa án, trên thực tế, Viện kiểm sát một số địa phương đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp tạm thời để triển khai thực hiện có hiệu quả hoạt động này trong thời gian chờ hướng dẫn của Viện kiểm sát cấp trên. Lãnh đạo đơn vị đã đề ra một số biện pháp quản lý, theo dõi chặt chẽ hơn hoạt động kiểm sát trả lại đơn khởi kiện của Tòa án. Theo đó, sổ theo dõi được điều chỉnh lại các cột mục, nội dung ghi chép cho phù hợp với hoạt động này, thể hiện việc lãnh đạo phân công từng Kiểm sát viên thực hiện và cập nhật kết quả kiểm sát hoạt động trả lại đơn khởi kiện của Tòa án qua các giai đoạn (nếu có). Nếu qua việc kiểm sát thông báo trả lại đơn khởi kiện của Tòa án, phát hiện có dấu hiệu chưa chính xác, vi phạm thì Kiểm sát viên được phân công đề xuất lãnh đạo có công văn rút hồ sơ lưu tại Tòa để nghiên cứu, xem xét kiến nghị nếu đủ căn cứ. Toàn bộ hoạt động này phải được lập thành hồ sơ, đưa vào lưu trữ đúng quy định (có đầy đủ tài liệu, phiếu kiểm sát, đề xuất của Kiểm sát viên, ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo để phân rõ trách nhiệm) và được cập nhật kết quả cụ thể vào sổ theo dõi. Bước đầu đưa vào thực hiện, quy trình nghiệp vụ này đã phần nào đáp ứng được yêu cầu công tác, giúp triển khai hiệu quả Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
ThS. Đoàn Thị Ngọc Hải