Thủ tục rút gọn theo quy định Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

21/06/2016
Để thể chế hóa đường lối cải cách tư pháp về áp dụng thủ tục rút gọn đối với những vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng và cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 về việc Tòa án xét xử tập thể, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (viết tắt BLTTDS), có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016, mà trong đó, có quy định một chương riêng về giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn (TTRG). TTRG là thủ tục tố tụng được áp dụng để giải quyết vụ án dân sự có đủ điều kiện với trình tự đơn giản so với thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thông thường nhằm giải quyết vụ án nhanh chóng nhưng vẫn bảo đảm đúng pháp luật. Trong phạm vi bài viết này, tác giả chỉ đề cập đến những vấn đề điều kiện áp dụng TTRG; thời điểm xác định áp dụng TTRG; chuyển từ TTRG sang thủ tục thông thường và vài kiến nghị xoay quanh những nội dung đề cập.
1. Điều kiện áp dụng TTRG
Theo quy định tại khoản 1 Điều 317 BLTTDS, vụ án được giải quyết theo TTRG khi đáp ứng các điều kiện sau:
a) Vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án và Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ;
b) Các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng;
c) Không có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước ngoài, trừ trường hợp đương sự ở nước ngoài và đương sự ở Việt Nam có thỏa thuận đề nghị Tòa án giải quyết theo thủ tục rút gọn hoặc các đương sự đã xuất trình được chứng cứ về quyền sở hữu hợp pháp tài sản và có thỏa thuận thống nhất về việc xử lý tài sản.
Qua nghiên cứu, người viết thấy rằng đây là một trong những quy định mới, lại chưa có nhiều thực tiễn để kiểm nghiệm, do vậy, vướng mắc sẽ phát sinh từ quy định trên khi áp dụng vào thực tiễn chắc chắn là không tránh khỏi và tất nhiên sẽ rất khó khăn, nếu không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền hướng dẫn kịp thời để thống nhất về nhận thức và áp dụng, đó là:
Thứ nhất, hiểu thế nào là vụ án “có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng”?
Cách hiểu khá phổ biến hiện này về quy định này, mà theo đó, các tình tiết đơn giản, dễ dàng để Tòa án xác định được sự thật khách quan và cũng rất thuận lợi việc kiểm tra tính hợp pháp của yêu cầu khởi kiện của đương sự. Chẳng hạn, giữa nguyên đơn và bị đơn có hợp đồng tín dụng cụ thể, rõ ràng và các khoản vay đã được giải ngân, do vậy, bị đơn khó có thể chối cãi trách nhiệm đối với các khoản nợ của mình đối với nguyên đơn. Quan hệ pháp luật không phức tạp, nghĩa là tính chất vụ án đơn giản về mặt pháp lý, chứng cứ rõ ràng. Tuy nhiên, nếu như bị đơn chỉ đồng ý trả khoản tiền là nợ gốc, đồng thời, phản đối yêu cầu thanh toán lãi quá hạn vì cho rằng nguyên đơn đã tính lãi quá cao. Sự xuất hiện tình tiết này, hiện có hai cách hiểu khác nhau:
+Cách hiểu thứ nhất: Trường hợp này bị đơn đã phản đối một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nên không thỏa mãn điều kiện đương sự thừa nhận nghĩa vụ để Tòa án áp dụng TTRG.
+Cách hiểu thứ hai: Trường hợp này vẫn áp dụng được TTRG, vì bị đơn thừa nhận nghĩa vụ, nghĩa vụ ở đây là trả phần nợ gốc và khoản tiền lãi cho nguyên đơn. Bị đơn chỉ phản đối việc nguyên đơn tính lãi suất quá cao chứ không phải là việc bị đơn phủ nhận nghĩa vụ trả nợ của mình đối với nguyên đơn. Như vậy, vấn đề còn lại của tranh chấp này, đó là xác định lãi suất cho phù hợp theo quy định của pháp luật mà thôi.
Thứ hai, hiểu như thế nào về tình tiết “đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ”?
Đương sự - theo quy định của BLTTDS được hiểu bao gồm cả nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Với các tranh chấp mà đương sự thừa nhận toàn bộ nghĩa vụ, nghĩa là một trong các bên hoặc nhiều bên trong quan hệ tranh chấp đều thừa nhận nghĩa vụ của mình đối với bên có quyền mà giữa họ không đưa ra bất kỳ yêu cầu phản đối nào so với yêu cầu khởi kiện và sự thừa nhận thực hiện nghĩa vụ đó không trái với đạo đức xã hội cũng như không vi phạm điều cấm của pháp luật, do vậy, Tòa án coi đó là trường hợp đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ. Chẳng hạn, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn thanh toán khoản nợ vay quá hạn thì phải có sự thừa nhận nghĩa vụ của bị đơn về khoản nợ đó hoặc trong trường hợp khoản nợ đó có người thứ ba bảo lãnh thì người bảo lãnh với tư cách là người có nghĩa vụ liên quan đồng ý thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Để thống nhất trong áp dụng, tác giả đề xuất cần có hướng dẫn Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải xác định từng yêu cầu của đương sự (nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ có yêu cầu độc lập) nào đang bị đương sự khác yêu cầu thực hiện nghĩa vụ để từ đó, trong văn bản thông báo nêu rõ từng yêu cầu của các đương sự và thể hiện rõ quan điểm có đồng ý với từng yêu cầu đó hay không trong văn bản trả lời.
Bên cạnh đó, việc hiểu đương sự thừa nhận nghĩa vụ toàn bộ nghĩa vụ cũng không loại trừ trường hợp họ không thể thực hiện theo đúng yêu cầu của nguyên đơn, mà có thể vì lý do hiện đang khó khăn về tài chính, như chưa bán được nhà, đang chờ kết quả Tòa án giải quyết vụ kiện chia thừa kế,…từ đó đề nghị được giảm tiền lãi và giãn tiến độ thanh toán. Như vậy, cần nên hiểu đương sự thừa nhận nghĩa vụ là đương sự không phản đối nghĩa vụ của mình đối với đương sự khác, nhưng không loại trừ việc cho phép họ đề xuất hướng xử lý, thực hiện nghĩa vụ của mình như xin giảm, miễn hoặc chậm thực hiện nghĩa vụ đối với bên đương sự có quyền.
2. Thời điểm xác định áp dụng TTRG
Theo quy định tại b khoản 3 Điều 191 BLTTDS năm 2015, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có thể quyết định tiến hành thủ tục thụ lý vụ án theo TTRG, nếu vụ án có đủ điều kiện để giải quyết theo TTRG quy định tại khoản 1 Điều 317 BLTTDS năm 2015. Vấn đề đặt ra, Thẩm phán đó có thông báo cho đương sự biết việc Tòa án sẽ giải quyết vụ kiện theo TTRG không? Vì theo quy định tại khoản 1 Điều 318 BLTTDS năm 2015, trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG và đương sự có quyền khiếu nại quyết định đó. Để thống nhất về nhận thức và áp dụng trong thực tiễn, theo tác giả cần có sự hướng dẫn cụ thể theo hướng nếu ngay sau khi thụ lý mà Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án xác định giải quyết theo TTRG, thì phải thông báo cho đương sự biết để đương sự thực hiện quyền khiếu nại (nếu có). Việc thông báo có thể kết hợp trong nội dung giấy báo thụ lý hoặc bằng một thông báo riêng,… miễn bảo đảm sự thuận lợi và đơn giản nhất có thể. Tuy nhiên, BLTTDS năm 2015 mới chỉ quy định việc khiếu nại, kiến nghị và giải quyết khiếu nại, kiến nghị về quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG tại Điều 319, mà chưa có quy định cụ thể về trình tự, thủ tục khiếu nại và giải quyết khiếu nại của đương sự đối với quyết định thụ lý vụ án theo TTRG. Do đó, thiết nghĩ cũng cần hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.
Trong trường hợp Thẩm phán đã quyết định thụ lý vụ án theo TTRG, nhưng sau đó lại không nhận được sự phản hồi (trả lời bằng văn bản) về nghĩa vụ của các đương sự khác theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, thì vụ án đó có tiếp tục giải quyết theo TTRG không? Bởi, nếu như không có sự phản hồi kịp thời này của đương sự, thì xem như chưa thỏa mãn các điều kiện áp dụng TTRG. Trường hợp này, nếu có căn cứ xác định được trong thời gian hợp lệ, đương sự trong vụ án đã nhận được nội dung thông báo của Tòa án về việc giải quyết tranh chấp theo TTRG, nhưng vì lý do nào đó họ không thực hiện việc trả lời, điều này đồng nghĩa với việc chưa có cơ sở xác định họ đã thừa nhận nghĩa vụ của mình dựa trên yêu cầu của nguyên đơn trong đơn khởi kiện, thì vụ án phải được chuyển sang giải quyết theo thủ tục thông thường (TTTT). Ngược lại, sở dĩ việc các đương sự không có văn bản trả lời mà lỗi hoàn toàn không thuộc về họ, như không nhận được giấy báo hoặc tuy nhận được nhưng quá thời hạn quy định (do ghi sai địa chỉ; không đúng tên người nhận; do phát hành văn bản chậm;…) thì giải quyết như thế nào cho hợp lý, để không làm mất đi tính khả thi của quy định trong BLTTDS năm 2015 về giải quyết tranh chấp theo TTRG, đồng thời cũng căn cứ quy kết trách nhiệm của cán bộ có liên quan.
Cũng có ý kiến cho rằng, dù luật không quy định nhưng sau khi Thẩm phán ra quyết định tiến hành thủ tục thụ lý thông thường thì vẫn có thể được giải quyết theo TTRG, trong trường hợp sau khi thụ lý vụ án mới xuất hiện đầy đủ các tình tiết áp dụng TTRG theo khoản 1 Điều 317 BLTTDS năm 2015 và còn trong thời hạn một tháng kể từ ngày thụ lý vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 318 BLTTDS năm 2015. Vấn đề này theo quan điểm của tác giả, trước hết, về thủ tục giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục thông thường với TTRG là khác nhau, cụ thể đối với vụ án giải quyết theo thủ tục rút gọn, Thẩm phán không tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải riêng mà Thẩm phán tiến hành hòa giải, công khai chứng cứ ngay sau khai mạc phiên tòa. Trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về toàn bộ các vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì Thẩm phán kết thúc phiên tòa; sau 07 ngày kể từ ngày phiên tòa kết thúc, Thẩm phán ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự. Trường hợp đương sự không thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì Thẩm phán tiến hành xét xử theo thủ tục chung. Ngược lại, với TTTT đòi hỏi Thẩm phán phải tiến hành rất nhiều thủ tục, như: tiếp nhận việc giao nộp tài liệu, chứng cứ; xác minh, thu thập chứng cứ; trưng cầu giám định; định giá tài sản, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời,…áp lực về thời gian xử lý vụ án không lớn. Nghĩa là trình tự, thủ tục được áp dụng phức tạp hơn và thời gian thường kéo dài hơn. Hơn nữa, với trường hợp đã áp dụng biện pháp ngăn chặn, nhưng lại chuyển sang TTRG thì liệu có tuân thủ đúng thủ tục mà pháp luật tố tụng quy định áp dụng TTRG không? Mặt khác, theo quy định tại khoản 3 Điều 191 BLTTDS năm 2015: “Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, thẩm phán phải xem xét đơn khởi kiện và có một trong các quyết định sau…”. Quy định này được hiểu, Thẩm phán sẽ đưa ra một và chỉ một trong các loại quyết định mà nhà làm luật đưa ra từ điểm a đến điểm d khoản 3 Điều 191 BLTTDS năm 2015, và luật cũng không quy định việc Thẩm phán được quyền thay đổi một trong các quyết định mà trước đóThẩm phán đã đưa ra trong giới hạn khoản 3 Điều 191 BLTTDS năm 2015, nghĩa là Thẩm phán chỉ được phép làm những gì pháp luật có quy định. Do vậy, ý kiến này là không thể xảy ra trong thực tế giải quyết án. Tuy nhiên, để việc vận dụng được thống nhất, cũng cần sự hướng dẫn từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền về ý kiến đề xuất vừa nêu trên.
3. Vấn đề chuyển vụ án được giải quyết theo TTRG sang thủ tục thông thường
Theo quy định tại khoản 3 Điều 317 và khoản 4 Điều 323 BLTTDS năm 2015,  luật mới chỉ quy định trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án theo TTRG, nếu xuất hiện tình tiết mới làm cho vụ án không còn đủ điều kiện để giải quyết theo TTRG thì Tòa án phải ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo TTTT, cụ thể là: phát sinh tình tiết mới mà các đương sự không thống nhất do đó cần phải xác minh, thu thập thêm tài liệu, chứng cứ hoặc cần phải tiến hành giám định; cần phải định giá, thẩm định giá tài sản tranh chấp mà các đương sự không thống nhất về giá; cần phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; phát sinh người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; phát sinh yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập; phát sinh đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước ngoài, yêu cầu xác minh, thu thập chứng cứ ở nước ngoài mà cần phải thực hiện ủy thác tư pháp.
Qua nghiên cứu, tác giả thấy rằng, việc xuất hiện người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không đương nhiên làm cho vụ án phải được giải quyết theo TTTT, nếu như các đương sự trong quan hệ tranh chấp đó vẫn thừa nhận nghĩa vụ đối với người có quyền lợi liên quan hoặc người có nghĩa vụ liên quan thừa nhận nghĩa vụ đối với các đương sự trong vụ án đó và các điều kiện áp dụng TTRG theo khoản 1 Điều 317 BLTTDS năm 2015 vẫn thỏa mãn. Tương tự, việc phát sinh yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập cũng không đương nhiên làm cho vụ án phải chuyển sang giải quyết theo TTTT, nếu như các nghĩa vụ theo yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập được thừa nhận và các tiêu chí khác tại khoản 1 Điều 317 BLTTDS năm 2015 vẫn được đáp ứng đối với yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập. Chính vì lẽ đó, khoản 3 Điều 317 BLTTDS năm 2015 quy định, trong trường hợp xuất hiện tình tiết “làm cho vụ án không còn đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn” thì Tòa án mới chuyển sang giải quyết theo TTTT. Do vậy, rất cần sự hướng dẫn cụ thể về việc khi xuất hiện tình tiết được quy định tại khoản 3 Điều 317 BLTTDS năm 2015, mà theo đó, không đương nhiên dẫn đến hệ quả vụ án phải chuyển sang giải quyết theo TTTT, nghĩa là cần có sự cân nhắc thận trọng liệu việc xuất hiện tình tiết mới đó có làm cho vụ án không còn đủ điều kiện giải quyết theo TTRG không.
Việc chuyển vụ án sang giải quyết theo TTTT tại Tòa án cấp phúc thẩm, khoản 4 Điều 323 BLTTDS năm 2015, quy định: “Trường hợp xuất hiện tình tiết mới quy định tại khoản 3 Điều 317 của Bộ luật này thì Tòa án ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường. Trong trường hợp này, thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án được tính theo quy định tại khoản 4 Điều 317 của Bộ luật này.”, nhưng luật lại không quy định với trường hợp, nếu xuất hiện tình tiết tại khoản 3 Điều 317 BLTTDS năm 2015 trong thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm buộc Tòa án cấp phúc thẩm phản ban hành quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo TTTT, điều đó có nghĩa, Tòa án cấp phúc thẩm vẫn phải mở phiên tòa để xem xét và quyết định hủy bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết lại từ đầu theo TTTT (quy định tại điểm c khoản 6 Điều 324 BLTTDS năm 2015). Do vậy, người viết đề nghị cần có hướng dẫn rõ nhằm thống nhất áp dụng quy định tại khoản 4 Điều 232 BLTTDS năm 2015.
4. Kiến nghị
Thứ nhất, về hướng dẫn yêu cầu có bản khai và lấy lời khai của đương sự trong vụ án được giải quyết theo TTRG. Khoản 1 Điều 98 BLTTDS năm 2015 quy định: Thẩm phán chỉ tiến hành lấy lời khai của đương sự khi đương sự chưa có bản khai hoặc nội dung bản khai chưa đầy đủ, rõ ràng. Đương sự phải tự viết bản khai và ký tên của mình. Trường hợp đương sự không thể tự viết được thì Thẩm phán lấy lời khai của đương sự. Việc lấy lời khai của đương sự chỉ tập trung vào những tình tiết mà đương sự khai chưa đầy đủ, rõ ràng. Thẩm phán tự mình hoặc Thư ký Tòa án ghi lại lời khai của đương sự vào biên bản…”. Quy định này được hiểu, cần phải có bản khai của đương sự trong mọi trường hợp. Vấn đề đặt ra, đơn khởi kiện và bản trả lời đơn khởi kiện của các đương sự trong vụ án có được coi là bản khai không? Nếu các văn bản đó không được coi là bản khai thì cần phải có bản khai của đương sự hoặc nếu không có thì Tòa án cần phải triệu tập đương sự để lấy lời khai. Như vậy, rất khó có thể ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG trong thời gian không quá 01 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 318 BLTTDS năm 2015. Do đó, theo quan điểm của tác giả, cần có sự hướng dẫn Điều 98 BLTTDS năm 2015 theo hướng đơn khởi kiện và văn bản trả lời đơn khởi kiện của đương sự cũng được coi là bản khai của đương sự.
Thứ hai, về hướng dẫn việc cấp, tống đạt, thông báo bằng phương tiện điện tử. Để bảo đảm điều kiện thuận lợi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân nộp đơn khởi kiện; đồng thời tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động tố tụng, tiến tới xây dựng “Tòa án điện tử”; khoản 2 Điều 173 BLTTDS năm 2015 bổ sung phương thức cấp, tống đạt, thông báo bằng phương tiện điện tử là phù hợp với pháp luật về giao dịch điện tử. Vì vậy, ngoài phương thức nộp đơn khởi kiện trực tiếp gửi đến Tòa án theo đường dịch vụ bưu chính, BLTTDS 2015 đã bổ sung phương thức gửi đơn khởi kiện trực tuyến bằng hình thức điện tử qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án, đây là phương thức mới và có ý nghĩa quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án nói chung và nhất là đối với các vụ án được giải quyết theo TTRG. Do đó, để việc áp dụng quy định này trên thực tế được thuận lợi, đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền sớm ban hành hướng dẫn chi tiết thủ tục gửi đơn qua cổng thông tin điện tử.
Thứ ba, xây dựng quy định có tính bắt buộc đi kèm chế tài xử lý trách nhiệm đối với thẩm phán khi có đủ điều kiện nhưng không áp dụng TTRG giải quyết vụ án. Dù TTRG khi áp dụng vào thực tiễn giải quyết án chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn, vì là quy định mới trong pháp luật TTDS, chính vì lẽ đó, tâm lý chung của không ít Thẩm phán thường không “mặn mà”, “ngại”, viện dẫn nhiều lý do khác nhau để “” không áp dụng thủ tục này. Do vậy, để mục đích tốt đẹp của quy định giải quyết các vụ án theo TTRG không bị triệt tiêu trong thực tiễn áp dụng, tác giả đề xuất nên chăng Tòa án nhân dân tối cao ban hành quy định, mà theo đó, một trong những tiêu chí chấm điểm thi đua của cơ quan về giải quyết án, của cá nhân khi xét thành tích khen thưởng trong đó có chỉ tiêu phản ánh giải quyết án theo TTRG. Bên cạnh đó, cần ban hành quy định tạo cơ chế kiểm soát việc áp dụng TTRG của thẩm phán ngay từ thời điểm nhận đơn khởi kiện và thụ lý thông qua kết quả xử lý đơn khởi kiện của Thẩm phán được phản ánh trong sổ nhận đơn và thông báo cho người khởi kiện biết việc áp dụng hoặc không áp dụng theo TTRG. Đây cũng chính là cơ sở để người dân thực hiện quyền khiếu nại đối với quyết định của Tòa án trong việc áp dụng hay không áp dụng TTRG khi giải quyết tranh chấp.
Tóm lại: Với ý nghĩa là chế định mới về TTRG trong giải quyết vụ án dân sự, được coi là thành công trong công tác lập pháp, trong đó các thời hạn nhà làm luật đưa ra đề được rút gọn hơn so với các thời hạn thông thường, nên vấn đề đầu tiên cần quan tâm là cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần kịp thời ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng các quy định của BLTTDS năm 2015 liên quan đến giải quyết vụ án theo TTRG, để bảo đảm các quy định đó được hiểu và áp dụng thống nhất trong thực tiễn. Trước mắt, các Tòa án cần có sự đổi mới mạnh mẽ khâu hành chính tư pháp, vì với TTRG mà việc “xử lý” của đội ngũ cán bộ Tòa án vẫn cứ đều đều, tuần tự như giải quyết vụ án theo TTTT đã và đang áp dụng như bấy lâu nay thì rõ ràng với cách làm đó, việc quy định giải quyết án theo TTRG được coi như ban hành cho “có lệ” sẽ không đạt hiệu quả trong thực tế.
                                                Phạm Thị Hồng Đào - Văn phòng luật sư Thạnh Hưng