Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự - một số vấn đề cần trao đổi

15/07/2015
 

Chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Một nhà nước mà ở đó, quyền con người được tôn trọng và bảo vệ không chỉ dừng lại ở các tuyên bố chính trị, ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật mà còn được bảo vệ trong thực tế. Quyền con người là một giá trị thiêng liêng bất khả tước đoạt, nó hiện hữu trong nhiều lĩnh vực của đời sống trong đó có lĩnh vực tố tụng hình sự. Không phổ biến, không rộng lớn, không diễn ra hàng ngày hàng giờ như các lĩnh vực hành chính, kinh tế, môi trường…, nhưng có thể nói quyền con người trong tố tụng hình sự lại là quyền dễ bị xâm phạm và bị tổn thương nhất và hậu quả để lại cũng nghiêm trọng nhất khi nó động chạm đến quyền được sống, quyền tự do và sinh mệnh chính trị của một cá nhân. Nghiên cứu vấn đề bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự phải giải quyểt rất nhiều vấn đề. Trong phạm vi bài viết này, người viết chỉ đề cập trực tiếp tới vấn đề này dưới góc độ tố tụng hình sự bằng việc làm rõ một số vấn đề cơ bản đó là: Quyền con người cần được quy định trong lĩnh vực tố tụng hình sự là những quyền nào; Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự là bảo vệ những ai; Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự ở Việt Nam phải tiếp tục giải quyết vấn đề gì trên cả 3 phương diện: lý luận, lập pháp và thực tiễn.

1. Quyền con người trong tố tụng hình sự - từ Luật quốc tế đến Luật Việt Nam

Phát hiện, xử lý tội phạm là công việc của bất kỳ nhà nước nào nhằm bảo vệ lợi ich của nhà nước, của xã hội, của cá nhân trong xã hội đó. Tuy nhiên, con người khi sinh ra ai cũng có quyền sống trong môi trường an toàn trong đó có sự an toàn về pháp lý. Sẽ là một xã hội bất công và quyền con người bị xâm phạm nếu dân chúng luôn cảm thấy bất an bởi cảm giác có thể bị đưa vào vòng quay của tố tụng hình sự với tư cách là người bị tình nghi, bị can, bị cáo bất cứ lúc nào. Vừa đảm bảo việc phát hiện xử lý tội phạm, vừa phải đảm bảo không xâm phạm quyền con người là một mâu thuẫn, để giải quyết hài hòa mâu thuẫn này đó chính là biểu hiện của một kiểu tố tụng hình sự trong một nhà nước văn minh. Công việc đầu tiên ở đâu cũng đòi hỏi và nhà nước nào cũng có nhiệm vụ phải làm là: Ghi nhận cụ thể những quyền con người nào trong hệ thống pháp luật tố tụng hình sự của mình. Việc ghi nhận này không phải là sự ban phát từ phía nhà nước mà bắt nguồn từ nhiều yếu tố trong đó có việc thừa nhận những giá trị cao quý nhân loại đã thừa nhận chung. Những giá trị đó là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, không ngừng nghỉ của loài người mới đạt được. Từ chỗ quyền con người trong đó có tính mạng, sức khỏe, phẩm giá của con người bị chà đạp trong các phiên tòa man rợ, phi nhân tính thời trung cổ, phong kiến, phiên tòa “giàn thiêu” giáo hội…cho đến kiểu tố tụng văn minh, nhân đạo trong nhà nước pháp quyền chứng minh thuyết phục cho giá trị của quyền con người trong tố tụng hình sự. Chúng ta có thể tìm thấy trong các văn kiện quốc tế về quyền con người trong tố tụng hình sự như: Tuyên ngôn nhân quyền thế giới năm 1948 (UHDR); Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR); Những nguyên tắc cơ bản trong việc đối xử với tù nhân; Công ước chống tra tấn, đối xử vô nhân đạo và hạ nhục con người năm 1985…

Nghiên cứu các văn bản này đưa đến một khẳng định quyền con người trong tố tụng hình sự chẳng qua là sự cụ thể quyền được sống, quyền được tự do trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Đây được coi là tiêu chuẩn về nhân quyền trong tố tụng hình sự. Theo đó, quyền con người trong tố tụng hình sự bao gồm những quyền sau “Điều 10, 11 UHDR và Điều 14, 15 ICCPR”: Quyền được xét xử công bẳng bởi một thủ tục tố tụng hình sự; Quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và quyền tự do cá nhân khác. Mọi trường hợp áp dụng các biện pháp cưỡng chế trách nhiệm hình sự phải trên cơ sở luật định; Quyền được suy đoán vô tội; Quyền được bào chữa và biện hộ, quyền không bị xét xử quá mức chậm trễ; Người chưa thành niên phải được áp dụng thủ tục tố tụng hình sự đặc biệt; Quyền kháng cáo bản án để xét xử phúc thẩm, quyền được nhanh chóng minh oan, quyền không bị kết tội hai lần về cùng một hành vi…; Các quyền con người trong thi hành án hình sự và sau xét xử…

Những quyền trên là những quyền của người bị buộc tội – đối tượng quan trọng nhất cần bảo vệ trong trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, tham gia vào quá trình tố tụng hình sự không chỉ có những người bị buộc tội mà còn có nhiều người khác mà lâu nay khi nghiên cứu về quyền con người trong tố tụng hình sự, chúng ta hay ít chú ý đó là quyền của nạn nhân của tội phạm (người bị hại), quyền của người làm chứng và những người liên quan khác, quyền con người của những người tiến hành tố tụng như Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán. Những người này họ cũng có quyền con người của họ như quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, danh dự, nhân phẩm, quyền được bảo vệ các quyền chính trị, dân sự, kinh tế của mình bằng con đường tố tụng hình sự.

Cho đến nay, Việt Nam chúng ta đã tham gia phần lớn và cam kết thực hiện ở cả hai phương diện lập pháp và cam kết thực hiện thực tiễn các văn kiện về quyền con người, điều đó được thể hiện trong Luật Tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở mức độ khác nhau. Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành có các nguyên tắc như: Thừa nhận Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền xét xử các vụ án hình sự; Nguyên tắc bảo vệ quyền cơ bản của công dân; Bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, suy đoán vô tội, quyền bào chữa, quyền kháng cáo, quyền minh oan…

Nghiên cứu quyền con người trong tố tụng hình sự không thể không đưa ra định nghĩa về nó. Hiện nay, có một số khái niệm về quyền con người trong tố tụng hình sự đã được đưa ra nhưng chủ yếu là nhấn mạnh đến quyền con người bị buộc tội mà chưa chú ý đến quyền của những người khác tham gia tố tụng hình sự: Quyền con người trong tố tụng hình sự là những quyền thiêng liêng chỉ dành cho con người khi họ tham gia quan hệ pháp luật tố tụng hình sự mà nhà nước có nghĩa vụ phải ghi nhận trong Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm thực hiện trên thực tế.

2. Cần phải bảo vệ quyền con người của những ai trong tố tụng hình sự?

Tố tụng hình sự xét cho cùng là quá trình giải quyết trên cơ sở pháp luật các xung đột giữa một bên là nhà nước với một bên được cho là người bị cho là thực hiện một hành vi tội phạm. Ở Mỹ người ta thường nói: Vụ án bang NewYork kiện Quarle, vụ bang Kolorado kiện Spring…Trong quá trình này luôn cần đến một vị trọng tài đó là Tòa án. Trong đó quyền con người của bên bị buộc tội luôn phải được quan tâm đầu tiên.

2.1. Bảo vệ quyền con người của bên bị buộc tội

Người bị buộc tội là khái niệm đang tranh luận trong khoa học Luật Tố tụng hình sự. Người viết đồng ý với quan điểm cho rằng người bị buộc tội bao gồm người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Xuất phát từ quan điểm thi hành án không phải là một khâu trong chuỗi các hoạt động tố tụng hình sự mà cần phải tách ra thành một hệ thống pháp luật, ngành khoa học nghiên cứu riêng nên vấn đề quyền con người của người bị kết án, tù nhân, người mãn hạn tù…thì ở đây người viết không đưa ra để trao đổi.

2.1.1. Bảo vệ bằng việc quy định các quyền của người bị buộc tội

Theo quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành, quyền con người của người bị buộc tội được thể hiện thông qua hệ thống các nguyên tắc đồ sộ của mình và được cụ thể hóa trong các chế định chứng minh, chứng cứ, các biện pháp ngăn chặn, nghĩa vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng; trong các quy định về xét xử của Tòa án và vấn đề minh oan cho người bị oan…

Về quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo Bộ luật tố tụng hình sự nước ta quy định khá đầy đủ các quyền của người bị buộc tội như: quyền được biết mình bị buộc tội về tội gì; Quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình; Quyền được chứng minh sự vô tội của mình bằng việc đưa ra tài liệu, đồ vật, yều cầu; Quyền được khiếu nại các quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng; Quyền được tham gia phiên tòa và tranh luận tại phiên tòa; Quyền không bị xét xử một cách quá chậm trễ thể hiện các quy định về thời hạn tạm giữ để khởi tố vụ án, thời hạn điểu tra, thời hạn truy tố, thời hạn xét xử…ví dụ như: hết thời hạn tạm giữ nếu cơ quan điều tra không có căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do cho người bị tạm giữ; nếu hết thời hạn điều ta không chứng minh được tội phạm thì phải đình chỉ điều tra, hủy bỏ quyết định khởi tố bị can, trả lại cho họ trạng thái bình thường của người vô tội và xin lỗi công khai, bồi thường nhà nước…

Khi một người bị buộc tội thì họ phải được xét xử tại tòa án độc lập, công khai và công bằng. Cụ thể hóa nguyên tắc này, Hiến pháp cũng như Luật tố tụng hình sự nước ta có những quy định chặt chẽ về thủ tục xét xử vụ án hình sự tại Tòa án trong đó ghi nhận vai trò của Tòa án trong việc xét xử, đồng thời quy định các quyền của bị cáo tại giai đoạn xét xử. Đó là việc quy định cụ thể thời hạn xét xử cho từng loại tội cụ thể. Quy định quyền của bị cáo trước tòa như: tự mình bào chữa, nhờ người bào chữa, tranh tụng bình đẳng với bên buộc tội …Quy định quyền kháng cáo và nguyên tắc hai cấp xét xử. Những quy định này nhằm đảm bảo quyền được xét xử công bằng và có một bản án công bằng của người bị buộc tội.

2.1.2. Bảo vệ bằng việc quy định nghĩa vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng

Khi công tố quyền được phát động, để tạo điều kiện cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện chức năng phát hiện, xử lý tội phạm, pháp luật cho phép họ được áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong đó hạn chế một số quyền tự do của người bị tình nghi, bị can, bị cáo. Tuy nhiện, sự hạn chế tự do của người bị buộc tội phải đảm bảo nguyên tắc pháp chế, tránh sự làm quyền. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định khá chặt chẽ các căn cứ để áp dụng biện pháp ngăn chặn như tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú…cũng như các biện pháp cưỡng chế trách nhiệm hình sự khác như khám người, khám chỗ ở…Tất cả các biện pháp cưỡng chế trách nhiệm hình sự trên đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng không được áp dụng tùy tiện, lạm dụng mà chỉ được thực hiện khi có căn cứ và theo đúng trình tự, thủ tục luật định. Xu hướng chung của tố tụng hình sự văn minh là hạn chế ở mức thấp nhất việc áp dụng các biện pháp tạm giữ, tạm giam, đồng thời mở rộng các biện pháp khác “mềm hơn” như bảo lãnh…Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn và cưỡng chế tố tụng hình sư đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng vừa đảm bảo nhiệm vụ phát hiện, xử lý tội phạm, vừa không xâm phạm đến quyền con người của người bị buộc tội. Điều quan trọng là cần có chế tài nghiêm khắc xử lý những hành vi bắt tạm giữ, tạm giam quá mức cần thiết hoặc tái pháp luật của những người tiến hành tố tụng.

Nguyên tắc suy đoán vô tội chỉ rõ trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về bên buộc tội. Điều đó cũng có nghĩa bên buộc tội nếu không chứng minh được một người nào đó phạm tội thì phải tha bổng và tuyên bố người đó vô tội. Tuy nhiện, không phải khi đã tuyên bố trách nhiệm chứng minh thuộc về bên buộc tội thì bên này có thể dùng mọi biện pháp để thu thập chứng cứ, mọi biện pháp điều tra để phục vụ cho việc chứng minh của mình, kể cả những biện pháp xâm phạm đến quyền con người kiểu như: bắt nhầm hơn bỏ sót. Hoạt động chứng minh nói riêng và thu thập chứng cứ nói chung cần phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật tức là phải đảm bảo pháp chế.

Khi bàn đến quyền con người trong tố tụng hình sự không thể bỏ qua đối tượng đặc biệt và cũng là đối tượng cần có cơ chế bảo vệ đặc biệt đó là người bị buộc tội là người chưa thành niên. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, bình đẳng trước tòa và bảo đảm quyền xét xử công bằng, là nguyên tắc của tố tụng hình sự. Tuy nhiên, công bằng có thể hiểu theo chiều ngang và chiều dọc. Theo chiều ngang là đối xử như nhau với những người có hoàn cảnh và điều kiện như nhau. Theo chiều dọc là đối xử khác nhau với những người có hoàn cảnh khác nhau. Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành đã giành cho người chưa thành niên bị buộc tội một thủ tục tố tụng hình sự riêng. Đó là những quy định hạn chế tối đa việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, tạm giữ, tạm giam. Quy định việc có mặt của người đại diện trong quá trình tố tụng hình sự, quy định thành phần Hội đồng xét xử phải có Hội thẩm nhân dân là cán bộ Đoàn, giáo viên…

2.2. Bảo vệ quyền con người của người bị hại và người làm chứng trong tố tụng hình sự

Trong tố tụng hình sự, nạn nhân của tội phạm tham gia tố tụng với tư cách người bị hại không chỉ là quyền mà là nghĩ vụ. Ở phương diện quyền con người nói chung, người bị hại đã bị tội phạm xâm phạm bằng cách gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản cũng như các quyền lợi ích hợp pháp khác. Trong tố tụng hình sự, quyền của người bị hại biểu hiện ở quyền được yêu cầu các cơ quan tiến hành tố tụng bảo vệ quyền con người của mình. Những quyền này được ghi nhận trước hết là quyền tố tụng của họ. Đó là: Quyền được đưa ra các yêu cầu đối với cơ quan tiến hành tố tụng. Được đưa ra các tài liệu, đồ vật bảo vệ quyền, lợi ich hợp pháp của mình; Được tham gia, giám sát các hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng; Được khiếu nại, kháng cáo các quyết định, bản án của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Đặc biệt người bị hại có quyền được bảo vệ an toàn trong quá trình tiến hành tố tụng. Được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, thông tin cá nhân, bí mật đời tư…chẳng hạn như trong các tội xâm phạm tình dục
(Tội hiếp dâm, Tội Hiếp dâm trẻ em) … Bộ luật tố tụng hình sự quy định xử kín.

Trong Bộ luật tố tụng hình sự của bất cứ quốc gia nào, người làm chứng trong vụ án hình sự đều được đánh giá cao trong việc phát hiện tội phạm. Thậm chí có lúc, có nơi người ta coi lời khai của người làm chứng như một loại chứng cứ “vua”. Tại Anh, trong các năm 2002 – 2003 có 2845 vụ án ở Tòa án Hoàng gia và 13.328 vụ án ở Tòa án sơ thẩm đã bị hoãn vì nhân chứng vắng mặt chiếm 22% và 26% vụ án bị hoãn. Cơ quan kiểm toán quốc gia Anh ước tính mỗi năm các phiên tòa bị hoãn đã gây thiệt hại 41triệu bảng (hơn 1.000tỷ VNĐ), ngoài thiệt hại về kinh tế thì thiệt hại về công lý có lẽ to lớn hơn nhiều. Chính vì vậy, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và các quyền lợi khác của người làm chứng để họ thực hiện tốt vai trò làm chứng của mình là việc cần quan tâm. Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2003 đã có những bước tiến dài trong việc bảo vệ người làm chứng như: quyền yêu cầu cơ quan triệu tập họ bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình; quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của ngưởi tiến hành tố tụng, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng (Điểu 55). Thực tế cho thấy, làm chứng trong vụ án hình sự là nghĩa vụ hết sức nặng nề đối với người làm chứng. Bên cạnh việc phải khai trung thực các tình tiết của vụ án, người làm chứng và gia đình họ phải đối mặt với những đe dọa nguy hiểm từ phía tội phạm và những người liên quan đến tội phạm. Những năm 80, 90 của thế kỷ trước ở Hoa Kỳ rất phổ biến hiện tượng “băng nhóm tội phạm đường phố” với thiên hướng bạo lực. Theo báo cáo của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hoa Kỳ J. Keeney lúc đó trước Hạ viện đã thừa nhận “sự sợ hãi của những người có thể trở thành NLC trong vụ án lớn đến mức nó đã hạn chế đáng kể khả năng của các cơ quan bảo vệ pháp luật truy cứu trách nhiệm hình sự những kẻ tội phạm bạo lực. Biết về sự sợ hãi này cũng như biết về sự bất lực của cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc bảo đảm an toàn cho NLC đã làm cho những kẻ tội phạm càng thêm tin tưởng về khả năng không bị pháp luật trừng phạt và càng lộng hành hơn đến nỗi chúng thẳng tay trả thù với cả những NLC gián tiếp. Chính vì vậy, bảo vệ quyền con người của người làm chứng là nghĩa vụ của nhà nước và các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm đảm bảo cho quá trình phát hiện, xử lý tội phạm được chính xác và toàn diện.

3. Một số giải pháp nhằm bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự ở Việt Nam

Để bảo vệ tốt hơn quyền con người trong tố tụng hình sự, người viết xin đưa ra một số giải pháp sau:

3.1. Về mặt lý luận

Tiếp tục nghiên cứu các vấn đề lý luận về quyền con người trong đó có quyền con người trong tố tụng hình sự để đưa đến nhận thức đúng đắn về vấn đề quyền con người như một giá trị của nhân loại. Khả năng, điều kiện tiếp thu các giá trị đó vào hoàn cảnh Việt Nam trên các phương diện lập pháp và thực tiễn. Tức là cần luận giải tính phổ biến và tính đặc thù của quyền con người nói chung và quyền con người trong tố tụng hình sự nói riêng. Yêu cầu đối với nghiên cứu lý luận về quyền con người trong tố tụng hình sự là phải đảm bảo được chiều sâu, tính đa dạng, khách quan của lý luận về quyền con người, phản ánh được thực tiễn sinh động của quá trình tố tụng hình sự và đảm bảo tính khả thi của các giải pháp.

3.2. Về phương diện lập pháp

Quyền con người trong tố tụng hình sự chi được đặt ra khi nhà nước tiến hành hoạt động tố tụng hình sự (điều tra, truy tố, xét xử). Chính vì vậy, bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự trước hết đòi hỏi hệ thống pháp luật không chỉ giúp nhà nước phát hiện xử lý tội phạm mà con không làm oan người vô tội. Dưới góc độ bảo vệ quyền con người Luật tố tụng hình sự Việt Nam cần điều chỉnh theo hướng sau:

- Ghi nhận đầy đủ các quyền con người trong tố tụng hình sự trên cơ sở các chuẩn mực quốc tế về quyền con người trong tố tụng hình sự. Trong luật thực định của chúng ta cho thấy còn một số quyền con người của người bị buộc tội chưa được ghi nhận: quyền được im lặng, quyền không buộc phải đưa ra chứng cứ chống lại chính mình, quyền thu thập đưa ra chứng cứ chống lại chính mình, quyền thu thập đưa ra chứng cứ, quyền bào chữa…vẫn chưa được quy định cụ thể.

Bên cạnh việc ghi nhận những quyền của người bị buộc tội, điểm yếu nhất của tố tụng hình sự nước ta đó chính là cơ chế để bảo vệ quyền con người. Quyền bào chữa, quyền thu thập đưa ra chứng cứ của người bào chữa, người bị buộc tội…được ghi nhận nhưng cơ chế nào để những người này thực hiện thì hiện chưa được khai thông.

Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự cũng có nghĩa là nếu người nào có những hành vi xâm phạm đến quyền con người trong tố tụng hình sự thì có chế tài nghiêm khắc để xỷ lý. Tức là trả lời cho câu hỏi: nếu không thực hiện thì có làm sao không? Hiện vẫn còn để ngỏ. Một vụ án bị chậm trễ đưa ra xét xử, một quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn không hợp lý và hợp pháp…đều chưa có chế tài cụ thể. Bên cạnh đó, việc bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng trong vụ án hình sự chưa được quan tâm đúng mức nên vẫn có những trường hợp họ bị trù dập, bị trả thù, bị đe dọa. Khi người ngay vẫn còn sợ kẻ gian thì không thể nói quyền con người đã được bảo đảm và kéo theo đó chính là chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp hình sự không cao.

3.3. Về phương diện thực tiễn

Cần nâng cao nhận thức về quyền con người, hay nói cách khác là tăng cường giáo dục quyền con người cho những người tiến hành tố tụng là các Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, bởi một điều mà người ta lo ngại nhất khi nói đến vấn đề bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự đó chính là sự xâm phạm quyền con người từ phía công quyền, sự xâm phạm này không chỉ thể hiện ở việc pháp luật còn khoảng trống mà phần nhiều nằm ở chính hoạt động cụ thể của người tiến hành tố tụng.

Đối với người bị buộc tội: cần nâng cao khả năng tự bảo vệ quyền con người của họ bằng việc tạo điều kiện tốt nhất để họ có thể tiếp cận các dịch vụ pháp lý thực hiện quyền bào chữa của mình trong quá trình tố tụng như thuê người bào chữa, chi phí thu thập chứng cứ, đơn giản hóa các thủ tục tố tụng…Chỉ khi nào thế và lực của hai bên buộc tội và gỡ tội đạt được thế quân bình ở mức tương đối thì quyền con người trong tố tụng hình sự mới được đảm bảo trên thực tiễn.

Đoàn Thị Ngọc Hải

 

 

Danh mục tài liệu tham khảo

1. Xem: Phạm Hồng Hải – Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, Nxb Công an nhân dân – 2004;

2. Xem: Nguyễn Thái Phúc – Bảo vệ người làm chứng và quyền miễn trừ làm chứng trong tố tụng hình sự, Tạp chí khoa học pháp lý, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, số 3/2007;

3. Xem: P.Reichel – Tư pháp hình sự so sánh, Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp năm 1999, trang 79;

4. Xem: Báo cáo nhân quyền của Việt Nam, http://vietnamnet.vn/chinhtri/2009