Cải thiện chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (chỉ số PCI) – nhìn từ góc độ hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật địa phương

30/12/2014
 

Trong cấu trúc điểm số của các chỉ số thành phần PCI không có chỉ số thành phần nào đề cập đến sự tác động của hệ thống pháp luật của địa phương đến kết quả điểm số PCI. Tuy nhiên, theo nghiên cứu tôi thấy rằng có sự liên kết chặt chẽ, sự tác động rất lớn của hệ thống pháp luật mỗi địa phương đến tổng điểm số của PCI. Sau đây tôi xin lấy tỉnh A làm ví dụ để phân tích. Cụ thể:

Theo cách tính về cấu thành chỉ số PCI gồm 10 chỉ số thành phần như: Chi phí gia nhập thị trường; tiếp cận đất đai và sự ổn định trong sử dụng đất; tính minh bạch và tiếp cận thông tin; chi phí thời gian để thực hiện các quy định của Nhà nước; chi phí không chính thức; cạnh tranh bình đẳng; tính năng động, tiên phong của Lãnh đạo tỉnh; Dịch vụ hỗ trợ Doanh nghiệp; đào tạo lao động và thiết chế pháp lý. Trong mỗi chỉ số thành phần, có các chỉ tiêu cụ thể để tính điểm như:

Ví dụ 1:

Về chỉ số chi phí gia nhập thị trường: Chỉ số này được xây dựng nhằm đánh giá sự khác biệt về chi phí gia nhập thị trường của các doanh nghiệp mới thành lập giữa các tỉnh với nhau và để tính điểm số của chỉ tiêu này chủ yếu đề cập đến chi phí thành lập doanh nghiệp, do đó có nội dung đánh giá “Thời gian đăng ký doanh nghiệp”; “Thời gian thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp”.

Nghị định số 108/2006/NĐ-CP và Nghị định số 43/2010/NĐ-CP của Chính phủ quy định thời gian là giống nhau về thời hạn cấp Giấy chứng nhận đầu tư hoặc Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (quy định mở), trên cơ sở quy định của Chính phủ mỗi tỉnh đều có những quy định khác nhau và các quy định này được thể hiện trong các văn bản pháp luật. Cụ thể là các Quyết định của UBND cấp tỉnh.

Ngay tại tỉnh A, thời điểm năm 2006 Quyết định số 47/2006/QĐ-UBND ngày 22/12/2006 của Ủy ban nhân dân tỉnh A ban hành Quy định chính sách khuyến khích và hỗ trợ đầu tư trên địa bàn tỉnh A có quy định thời hạn cấp Giấy chứng nhận đầu tư do UBND tỉnh cấp là 10 ngày kể từ ngày Sở Kế hoạch và Đầu tư nhận được hồ sơ hợp lệ hoặc quy định cấp Giấy chứng nhận đầu tư là 03 ngày. Tuy nhiên, Quyết định số 23/2011/QĐ-UBND, ngày 24/6/2011 Ban hành Quy định về chính sách khuyến khích và hỗ trợ đầu tư trên địa bàn tỉnh A đã bỏ quy định này. Chính vì việc bỏ quy định này nên sự minh bạch, rõ ràng của hệ thống pháp luật địa phương không đảm bảo và do đó, tổ chức, doanh nghiệp phải đầu tư nhiều thời gian, công sức và thậm chí cả tiền của cho việc thực hiện thủ tục này. Chính vì vậy mà từ khi có Quyết định 23/2011/QĐ-UBND ban hành thì chỉ số này của A sụt giảm rõ rệt.

Ví dụ 2: Về chỉ số tiếp cận đất đai và sự ổn định trong sử dụng đất

Để tính điểm số chỉ chỉ số này, VCCI đưa ra 8 nội dung đánh giá, trong đó có nội dung “ Sự thay đổi khung giá đất của tỉnh phù hợp với sự thay đổi của giá thị trường”; “Nếu bị thu hồi đất, doanh nghiệp sẽ được bồi thường thỏa đáng ; Doanh nghiệp thực hiện các thủ tục hành chính về đất đai trong vòng 2 năm qua nhưng không gặp bất kỳ khó khăn nào về thủ tục CHỈ TIÊU MỚI. Theo quy định của Luật Đất đai thì thẩm quyền quy định giá đất do HĐND, UBND tỉnh quy định hàng năm và việc quy định này phải bằng văn bản pháp luật, bên cạnh đó Luật đất đai cũng quy định giao cho UBND cấp tỉnh quy định trình tự, thủ tục thu hồi đất và mức giá bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người có đất bị thu hồi, trong đó có doanh nghiệp . Như vậy, đã cho thấy có sự tác động đương nhiên của hệ thống pháp luật địa phương đến chỉ số này.

Ví dụ 3: Về chỉ số tính minh bạch về tiếp cận thông tin

Để tính điểm số của chỉ số này, VCCI đưa ra 11 nội dung đánh giá, trong đó có 05 nội dung liên quan đến hệ thống pháp luật như: Tiếp cận tài liệu pháp lý; Khả năng có thể dự đoán được trong thực thi của tỉnh đối với quy định pháp luật của Trung ương; Doanh nghiệp tham gia góp ý kiến về quy định, chính sách của Nhà nước; Độ mở và chất lượng của trang web tỉnh;   Vai trò của các hiệp hội DN địa phương trong việc xây dựng và phản biện chính sách, quy định của tỉnh.

Điểm số của chỉ số này tại tỉnh A cơ bản tăng từ năm 2010 -2013, cụ thể: 5,66; 5,31, 5,98, 5,39 so với năm 2008, 2009 là 3,65 và 4,17. Sở dĩ có sự cải thiện điểm số nêu trên là trong năm 2011, 2012 tỉnh đã ban hành nhiều quy định như:

Quyết định số 12/2011/QĐ-UBND, ngày 28/3/2011 V/v ban hành Quy chế ban hành văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh A , trong đó quy định rõ việc ban hành văn bản phải lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác động, trong đó có Doanh nghiệp và Chỉ thị số 01/2013/CT-UBND, ngày 06/6/2013 Về việc tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh A, trong đó chỉ đạo Sở Thông tin và Truyền thông khi thực hiện giao ban báo chí có trách nhiệm phối hợp với Văn phòng Đoàn Đại biểu Quốc hội và HĐND, Văn phòng UBND tỉnh để thông báo các văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND tỉnh được ban hành, trong đó nêu rõ sự cần thiết, mục đích ban hành và nội dung chủ yếu của văn bản quy phạm pháp luật để nhân dân trên địa bàn tỉnh hiểu và chấp hành tốt.

Ngoài ra, Sở Tư pháp cũng đã tiến hành rà soát, hệ thống hóa văn bản pháp luật do tỉnh ban hành còn hiệu lực thi hành từ năm 1992 đến nay đăng tải công khai trên Cổng thông tin điện tử của Sở cũng như công khai kịp thời các văn bản do HĐND, UBND mới ban hành.

Bên cạnh đó, Quyết định số 1219/QĐHC-CTUBND ngày 29/11/2011 của Chủ tịch UBND tỉnh Phê duyệt Chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh A, giai đoạn 2012-2014 giao các Sở, ngành phải đăng tải danh mục văn bản QPPL thuộc ngành, lĩnh vực mình lên Cổng thông tin điện tử của ngành.

Ví dụ 4: Về chi phí thời gian để thực hiện các quy định của Nhà nước

Để tính điểm số chỉ số này, VCCI đưa ra 9 nội dung đánh giá, trong đó có nội dung liên quan đến việc công khai phí, lệ phí. Việc quy định phí, lệ phí thuộc thẩm quyền của HĐND, UBND tỉnh và được ban hành trong các văn bản QPPL.

Tương tự các chỉ số thành phần khác như: Tính năng động và tiên phong của lãnh đạo tỉnh( trong việc giải quyết các vấn đề mới phát sinh; phản ứng của tỉnh khi có điểm chưa rõ trong chính sách/văn bản trung ương ) đều liên quan đến việc ban hành văn bản QPPL.

Theo điểm c khoản 2 điều 2 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân là UBND tỉnh ban hành văn bản QPPL để thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương. Đây là một quy định mở mà trung ương muốn dành cho địa phương. Do đó, địa phương nào tận dụng thực hiện quy định này thì sẽ góp phần giúp cho Lãnh đạo tỉnh cải thiện tính năng động, như việc các tỉnh đưa ra các quy định liên quan đến chính sách ưu đãi đầu tư, chính sách thu hút nguồn nhân lực, các chính sách mang “dấu ấn” riêng của địa phương mình trong việc thực hiện các chủ trương, định hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Việc xác định được thẩm quyền của UBND cấp tỉnh trong việc ban hành văn bản QPPL để thực hiện chức năng quản lý nhà nước tại địa phương, nếu có vấn đề phát sinh mà văn bản trung ương chưa quy định thì ngành chuyên môn sẽ tham mưu UBND quy định vấn đề đó và triển khai thực hiện, cũng như để thực hiện một chính sách nào đó của tỉnh (quan điểm, định hướng phát triển kinh tế - xã hội của các Lãnh đạo địa phương đề ra). Đây chính là đặc điểm quản lý hành chính nhà nước – việc quản lý hành chính nhà nước có tính linh động và tính linh động này thể hiện ngay trong thẩm quyền ban hành văn bản QPPL của cấp tỉnh. Như vậy, thay vì phải xin ý kiến của Trung ương hay “trì hoãn” và “không làm gì” thì UBND sẽ ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện và thời gian để ban hành một văn bản không quá dài so với sự mong đợi của các tổ chức, doanh nghiệp. Thế nhưng tiếc rằng nhiều địa phương không thực hiện hoặc không tận dụng hết những quy định mà pháp luật cho phép, cũng như các Lãnh đạo cấp tỉnh còn e ngại hoặc vì lý do nào đó mà không đề ra và thực hiện những chính sách, chủ trương, thông điệp của mình cho việc đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống người dân trong từng giai đoạn .

Tóm lại: Từ việc phân tích trên, tôi cho rằng: Mặc dù không phải là một chỉ số thành phần để tạo thành cấu trúc của PCI nhưng hệ thống văn bản pháp luật của chính quyền địa phương có tác động cơ bản đến các chỉ số thành phần của chỉ số PCI. Do đó, các cơ quan chuyên môn tham mưu cho UBND cấp tỉnh cần phải chủ động, linh hoạt trong việc đề xuất HĐND, UBND tỉnh ban hành văn bản QPPL liên quan đến ngành, lĩnh vực mình để điều chỉnh những vấn đề mới phát sinh mà văn bản Trung ương chưa quy định hoặc để thực hiện những chủ trương, chính sách của Lãnh đạo địa phương đề ra cũng như để giải quyết những vấn đề còn ách tắc mà các văn bản của trung ương chưa giải quyết được.  Bên cạnh đó, các cơ quan chuyên môn cần có sự sáng tạo, đột phá trong việc xây dựng văn bản pháp luật.

Với quan điểm trên, để cải thiện chỉ số PCI của mỗi địa phương, theo tôi cần thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất, HĐND, UBND cấp tỉnh cần ban hành các văn bản pháp luât có tính chất đột phá, mang dấu ấn của địa phương nhằm giải quyết những vấn đề còn tồn tại trong việc thực hiện các quyền của tổ chức, cá nhân trên quan điểm không trái với Hiến pháp và văn bản pháp luật của Trung ương, đồng thời làm công cụ triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của địa phương cũng như quan điểm của Lãnh đạo cấp tỉnh trong việc phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ hai, quy định cụ thể, rõ ràng các thủ tục hành chính, các thủ tục được phép thực hiện liên thông và đặc biệt là thủ tục liên quan đến đầu tư, quan tâm đến đào tạo, bồi dưỡng đạo đức công vụ, thực hiện tốt việc kiểm tra, thanh tra.

Thứ ba, đối mới quy trình ban hành văn bản QPPL, tạo tính đột phá trong việc xây dựng, góp ý văn bản QPPL của cấp tỉnh. Các cơ quan khi tham mưu ban hành văn bản phải quán triệt các nguyên tắc đảm bảo tính ổn định của các văn bản pháp luật tại địa phương; hạn chế tình trạng ban hành  quá nhiều văn bản sửa đổi, bổ sung đồng thời không làm phát sinh thêm thủ tục hành chính nếu không cần thiết. Bên cạnh đó, ban hành quy trình xây dựng văn bản QPPL của địa phương, trong đó quy định rõ quá trình ban hành văn bản QPPL phải đảm bảo cho các tổ chức, doanh nghiệp được quyền tham gia góp ý và cơ quan soạn thảo phải có giải trình tiếp thu, không tiếp thu ý kiến góp ý của tổ chức, doanh nghiệp và văn bản này phải được gửi đến các cơ quan, doanh nghiệp đã góp ý.

Thứ tư, ban hành các quy định liên quan đến đất đai (giá đất, bồi thường, thu hồi đất) một cách rõ ràng, đầy đủ, hợp lý, đảm bảo quyền lợi của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp khi có đất bị thu hồi.

Thứ năm, mỗi cơ quan cần nắm vững các chỉ số thành phần của PCI để tham mưu ban hành văn bản pháp luật liên quan, nhằm cải thiện điểm số của địa phương mình.

Thứ sáu, các nhà Lãnh đạo cấp tỉnh cần quán triệt quan điểm, nhận thức rằng cải thiện điểm số PCI không phải để chạy theo thành tích mà đó là cải thiện mức độ phục vụ cũng như khả năng đáp ứng của chính quyền địa phương đối với nhu cầu thực tế của cá nhân, doanh nghiệp và cũng là “sự ghi điểm” của người dân đối với hoạt động điều hành của bộ máy chính quyền địa phương.

 

Châu Thị Minh - Cần Thơ