Luật Đấu thầu năm 2013 – Cơ sở pháp lý đảm bảo nguyên tắc cạnh tranh, công bằng. minh bạch và hiệu quả kinh tế

04/03/2014
Luật Đấu thầu là cơ sở pháp lý quan trọng đưa các hoạt động đấu thầu mua sắm sử dụng vốn Nhà nước dần đi vào nề nếp. Luật Đấu thầu năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản năm 2009 cùng với hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành hai Luật này đã góp phần thiết lập môi trường minh bạch, cạnh tranh cho các hoạt động đấu thầu phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo cơ sở để chủ đầu tư lựa chọn được nhà thầu có đủ năng lực, kinh nghiệm cung cấp hàng hóa, dịch vụ, công trình, giúp tiết kiệm nguồn vốn có hạn của Nhà nước. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, Luật Đấu thầu năm 2005 cũng đã bộc lộ những vướng mắc, hạn chế về phạm vi điều chỉnh, phân cấp trong hoạt động đấu thầu, thủ tục trình duyệt…
Trong hoạt động đấu thầu sử dụng nguồn vốn Nhà nước cũng có những hành vi lách luật hoặc không tuân thủ đầy đủ quy định của pháp luật đấu thầu, nhưng chế tài xử lý vi phạm chưa đủ mạnh và chưa đầy đủ đối với tất cả các bên tham gia hoạt động đấu thầu; tính chuyên môn, chuyên nghiệp trong hoạt động đấu thầu chưa đồng đều và còn hạn chế ở một số địa phương; chất lượng, hiệu quả thực hiện một số công việc chuẩn bị cho hoạt động đấu thầu chưa cao; vấn đề quản lý sau đấu thầu chưa được thực hiện thường xuyên và quan tâm đúng mức; có tình trạng thông thầu, chỉ định thầu bất hợp lý, kéo dài thời gian thực hiện gói thầu… gây lãng phí, thất thoát nguồn vốn Nhà nước. Do vậy, cần phải sửa đổi để khắc phục những bất cập của Luật Đấu thầu năm 2005.

Xuất phát từ thực tế trên, Luật Đấu thầu năm 2013 đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 26/11/2013, bao gồm 13 chương với 96 điều, được xây dựng trên cơ sở sửa đổi toàn diện Luật Đấu thầu năm 2005, Điều 2 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản năm 2009. Kể từ ngày 1/7/2014, Luật đấu thầu số 43/2013/QH13 có hiệu lực thi hành thì Luật Đấu thầu số 61/2005/QH11 hết hiệu lực thi hành; và bãi bỏ Mục 1 Chương VI Luật Xây dựng số 16/2003/QH11 và Điều 2 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản số 38/2009/QH12.

Luật Đấu thầu năm 2013 được xây dựng từ những đòi hỏi cấp thiết trong quá trình xây dựng và hoàn thiện, nhất thể hoá hệ thống pháp luật về mua sắm sử dụng vốn Nhà nước, xóa đi những chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực đấu thầu. So với Luật Đấu thầu năm 2005, Luật Đấu thầu năm 2013 có những điểm mới cơ bản sau đây:

Một là, về phạm vi điều chỉnh, bên cạnh các dự án đầu tư phát triển của cơ quan Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước, Luật còn quy định thêm các dự án liên kết với tư nhân có sử dụng 30% vốn Nhà nước trở lên, hoặc vốn Nhà nước dưới 30%, nhưng quy mô dự án trên 500 tỷ đồng cũng sẽ thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật.

Với quy định như vậy, mặc dù khối lượng công việc liên quan đến quản lý nguồn vốn ngân sách mà các cơ quan quản lý phải theo dõi sẽ tăng, nhưng việc quản lý và sử dụng nguồn lực của Nhà nước sẽ được kiểm soát chặt chẽ hơn, tránh được các trường hợp phung phí tiền của Nhà nước. Hơn nữa, doanh nghiệp tư nhân dù không sử dụng đồng vốn nào có nguồn từ ngân sách cũng phải được điều chỉnh theo luật.  

Hai là, Luật Đấu thầu năm 2013 đã quy định rõ chính sách ưu đãi dành riêng cho nhà thầu trong nước và hàng hóa sản xuất trong nước khi tham gia đấu thầu trong nước hay đấu thầu quốc tế.

Đối với nhà thầu trong nước, Luật tạo cơ hội cho nhà thầu trong nước trúng thầu và chú trọng ưu tiên phát triển nguồn nhân lực nội địa. Luật Đấu thầu năm 2013 yêu cầu nhà thầu nước ngoài khi tham dự đấu thầu quốc tế tại Việt Nam phải liên danh với nhà thầu trong nước. Trường hợp liên danh mà phần việc do nhà thầu trong nước đảm nhận từ 25% giá trị công việc của gói thầu trở lên, thì sẽ được áp dụng ưu đãi. Ngoài ra, nhà thầu sử dụng lao động là nữ giới, thương binh, người khuyết tật, hay nhà thầu doanh nghiệp nhỏ được hưởng chính sách ưu đãi khi tham gia đấu thầu trong nước.

Đối với hàng hóa trong nước, Luật ưu đãi với các dịch vụ và sản phẩm được sản xuất trong nước, nhằm thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị về “Khuyến khích người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, tạo công ăn việc làm cho lao động trong nước và nhà thầu sẽ được hưởng ưu đãi khi tham gia đấu thầu trong nước hoặc đấu thầu quốc tế để cung cấp hàng hóa có chi phí sản xuất trong nước chiếm tỷ lệ từ 25% trở lên.

Các quy định này được tính toán kỹ lưỡng, không trái với các thông lệ quốc tế và ở bất kỳ quốc gia nào cũng có chính sách hỗ trợ thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển và tạo việc làm cho người lao động yếu thế trong xã hội. Đồng thời với quy định này sẽ từng bước giúp nhà thầu Việt Nam tiếp nhận công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến, tự chủ, nâng cao năng lực, sức cạnh tranh để tiến tới trở thành nhà thầu độc lập thực hiện các gói thầu lớn, công nghệ cao, phức tạp không chỉ tại thị trường Việt Nam mà cả trên thị trường quốc tế.

Ba là, thực tế, điều doanh nghiệp mong muốn nhất là mọi quy trình, thủ tục được công khai, minh bạch và tập trung vào một đầu mối để có hướng dẫn cụ thể rõ ràng. Họ cũng mong muốn rằng, thời gian trước mắt phải ưu đãi hỗ trợ nhà thầu trong nước vượt qua các khó khăn giai đoạn đầu. Do vậy, Luật Đấu thầu năm 2013 đã sửa đổi một số quy định hiện hành nhằm đơn giản hóa thủ tục hành chính trong hoạt động đấu thầu theo tinh thần Nghị quyết số 25/NQ-CP ngày 2/6/2010 của Chính phủ về việc đơn giản hóa 258 thủ tục hành chính thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ, ngành và Nghị quyết số 70/NQ-CP ngày 27/12/2010 của Chính phủ về việc đơn giản hóa thủ tục hành chính thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đồng thời quy định cụ thể hơn về các quy trình lựa chọn nhà thầu với từng trường hợp cụ thể.

Bốn là, việc đánh giá hồ sơ dự thầu theo phương pháp giá đánh giá thấp nhất quy định tại Luật Ðấu thầu năm 2005, mặc dù là một phương pháp tiên tiến phù hợp với thông lệ quốc tế, nhưng chưa tính đến điều kiện cụ thể của Việt Nam nên trong một số trường hợp khó áp dụng. Luật Ðấu thầu năm 2013 đã khắc phục hạn chế này, bổ sung thêm các phương pháp đánh giá mới để tăng tính chủ động, linh hoạt cho chủ đầu tư trong việc lựa chọn nhà thầu phù hợp hơn với từng loại hình và quy mô của gói thầu, đồng thời khắc phục tình trạng bỏ thầu giá thấp, nhưng không đủ năng lực, kinh nghiệm để thực hiện gói thầu. Cụ thể, khi đánh giá hồ sơ dự thầu đối với gói thầu cung cấp dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp, hỗn hợp, thì chủ đầu tư có thể lựa chọn một trong các phương pháp, như: Phương pháp giá thấp nhất, phương pháp giá đánh giá, phương pháp kết hợp giữa kỹ thuật và giá. Còn đối với gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, chủ đầu tư có thể lựa chọn một trong các phương pháp, như: Phương pháp giá thấp nhất, giá cố định, dựa trên kỹ thuật, hoặc phương pháp kết hợp giữa kỹ thuật và giá.

Năm là, Luật quy định hình thức mua sắm tập trung để áp dụng rộng rãi trong công tác đấu thầu. Theo hình thức này, thay vì tổ chức mua sắm ở hàng trăm cơ quan khác nhau thì cơ quan mua sắp tập trung sẽ chịu trách nhiệm tổ chức mua sắm chuyên nghiệp một lần. Hình thức này không chỉ giúp tăng tính chuyên nghiệp trong hoạt động mua sắm, mà còn tạo điều kiện nâng cao hiệu quả, rút ngắn thời gian và chi phí tổ chức mua sắm. Ðồng thời, hỗ trợ phát triển sản xuất trong nước và khuyến khích nhà thầu nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ.

Cùng với mua sắm tập trung, Luật Ðấu thầu năm 2013 còn bổ sung một số nguyên tắc chính và quy trình tổng quát trong mua sắm thường xuyên nhằm nâng cao hiệu lực pháp lý của quy định này, đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật về đấu thầu (khi chưa có Luật Ðấu thầu năm 2013, vấn đề này chỉ được quy định trong thông tư). Ðồng thời, việc phân cấp trong đấu thầu mua sắm thường xuyên được quy định cụ thể hơn, tăng cường trách nhiệm giải trình, đơn giản hóa thủ tục hành chính.

Sáu là, thuốc, vật tư y tế là một loại hàng hóa đặc thù, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và đời sống của người dân, do đó, Luật Đấu thầu năm 2013 đã dành riêng một mục quy định về mua thuốc, vật tư y tế sử dụng vốn Nhà nước, nguồn quỹ bảo hiểm y tế, nguồn thu từ dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh và nguồn thu hợp pháp khác của các cơ sở y tế công lập. Những hàng hóa này do tính đặc thù, nên chủ đầu tư còn có thể áp dụng hình thức đàm phán giá. Đây là một hình thức hoàn toàn mới, đã nảy sinh trong thực tiễn những năm gần đây. Do đó, Luật Đấu thầu năm 2013 đã bổ sung kịp thời thêm hình thức này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ đầu tư trong việc mua thuốc trong trường hợp gói thầu đó chỉ có một đến hai nhà sản xuất, hay đó là thuốc biệt dược gốc, thuốc hiếm, thuốc trong thời gian còn bản quyền.

Bảy là, Luật Đấu thầu năm 2013 bổ sung thêm hình thức và phương thức lựa chọn nhà thầu. Luật bổ sung quy định mang tính nguyên tắc về thủ tục, phương pháp lựa chọn nhà đầu tư trên cơ sở tổng hợp các thông lệ quốc tế tốt và rút kinh nghiệm từ thực tiễn lựa chọn nhà đầu tư tư nhân trong và ngoài nước thực hiện các dự án kết cấu hạ tầng và dịch vụ công cộng tại Việt Nam trong thời gian qua. Quy định này nhằm thúc đẩy tái cơ cấu đầu tư công, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc thu hút, lựa chọn nhà đầu tư một cách minh bạch, cạnh tranh; xây dựng niềm tin của nhà đầu tư đối với môi trường đầu tư tại Việt Nam.

Về hình thức lựa chọn nhà thầu: Ngoài những hình thức lựa chọn nhà thầu đã được quy định trong Luật Đấu thầu năm 2005 (đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế, chỉ định thầu, chào hàng cạnh tranh, mua sắm trực tiếp, tự thực hiện, lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư trong trường hợp đặc biệt), Luật Đấu thầu năm 2013 còn bổ sung thêm hình thức tham gia thực hiện của cộng đồng để phù hợp với thực tiễn, nhằm thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển và tạo việc làm cho người lao động trong nước. Những gói thầu thuộc chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình hỗ trợ xóa đói giảm nghèo cho các huyện, xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo, vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn hay những gói thầu có quy mô nhỏ, nếu cộng đồng dân cư, tổ chức, tổ, nhóm thợ tại địa phương nơi có gói thầu có thể đảm nhiệm, thì được giao thực hiện toàn bộ hay một phần gói thầu đó.

Về phương thức lựa chọn nhà thầu: Luật Đấu thầu năm 2005 chỉ quy định 3 phương thức đấu thầu, đó là: phương thức một túi hồ sơ, phương thức hai túi hồ sơ và phương thức hai giai đoạn. Để tạo điều kiện thuận lợi hơn trong quá trình lựa chọn nhà thầu, Luật Đấu thầu năm 2013 đã quy định rõ hơn với 4 phương thức đấu thầu, là: Phương thức một giai đoạn một túi hồ sơ; một giai đoạn hai túi hồ sơ; hai giai đoạn một túi hồ sơ; hai giai đoạn hai túi hồ sơ. Đặc biệt, phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ được áp dụng cho đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế đối với gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp, hỗn hợp; đấu thầu rộng rãi đối với lựa chọn nhà đầu tư (trong khi đó, Luật Đấu thầu năm 2005 quy định phương thức này chỉ áp dụng đối với gói thầu dịch vụ tư vấn).

Tám là, nhằm tăng cường trách nhiệm của nhà thầu và chủ đầu tư trong quá trình thực hiện hợp đồng, để tránh tình trạng áp dụng loại hợp đồng không phù hợp với tính chất của gói thầu, điều chỉnh hợp đồng, điều chỉnh hình thức hợp đồng, điều chỉnh thời gian thực hiện hợp đồng một cách tùy tiện, gây lãng phí, làm giảm hiệu quả đầu tư của các dự án thời gian qua, Luật Ðấu thầu năm 2013 đã có một bước chuyển rất mạnh mẽ trong quy định về ký kết, thực hiện và quản lý hợp đồng trong đấu thầu. Đây là một trong những nội dung mới cơ bản đáng quan tâm của Luật Đấu thầu năm 2013.

Đối với các gói thầu thuộc phạm vi điều chỉnh, loại hợp đồng phải được xác định rõ trong kế hoạch lựa chọn nhà thầu và chỉ bao gồm 4 loại hợp đồng: Hợp đồng trọn gói, hợp đồng theo đơn giá cố định, hợp đồng theo đơn giá điều chỉnh, hợp đồng theo thời gian. Trong đó, hợp đồng trọn gói được xác định là loại hợp đồng cơ bản, nếu không áp dụng thì phải chứng minh một trong những loại hợp đồng còn lại phù hợp hơn. Đối với những gói thầu quy mô nhỏ, đơn giản thì bắt buộc phải sử dụng loại hợp đồng trọn gói.

Chín là, Luật Đấu thầu năm 2013 phân cấp triệt để trong đấu thầu. Theo đó, người quyết định đầu tư, chủ đầu tư tiếp tục được giao chịu trách nhiệm về toàn bộ quá trình tổ chức lựa chọn và thực hiện gói thầu. Khác với Luật Đấu thầu năm 2005, Luật Đấu thầu năm 2013 phân cấp triệt để việc quyết định hình thức chỉ định thầu cho Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp mà không yêu cầu trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Để việc phân cấp gắn với trách nhiệm giải trình, tránh khép kín trong đấu thầu, Luật Đấu thầu năm 2013 đã bổ sung quy định về trách nhiệm giải trình của người dân có thẩm quyền, chủ đầu tư trong quá trình tổ chức lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư.

Mười là, Luật Đấu thầu năm 2013 được đánh giá là có bước tiến trong việc tăng cường giám. Luật bổ sung quy định về yêu cầu giám sát của cộng đồng trong quá trình lựa chọn nhà thầu và thực hiện hợp đồng, bổ sung trách nhiệm về giám sát của người có thẩm quyền, cơ quan quản lý nhà nước về đấu thầu.

Ngoài ra, nhằm tăng cường chế tài xử lý vi phạm trong đấu thầu, Luật Đấu thầu năm 2013 bổ sung một số hành vi bị cấm trong đấu thầu, đồng thời quy định thêm biện pháp xử phạt đối với cá nhân được giao trách nhiệm xử phạt nhưng không tuân thủ quy định, các biện pháp phạt bổ sung như đăng tải công khai các tổ chức, cá nhân vi phạm trên phương tiện thông tin đại chúng, buộc phải thực hiện đúng quy định của pháp luật về đấu thầu hoặc bồi thường thiệt hại theo quy định.

Với những nội dung được quy định rõ ràng, mạch lạc và chặt chẽ, Luật Đấu thầu năm 2013 được kỳ vọng là sẽ cải thiện rõ rệt trong quản lý Nhà nước về hoạt động đấu thầu nói riêng, góp phần tăng cường hiệu quả sử dụng vốn của Nhà nước nói chung trong thời gian tới. Tuy nhiên, để đạt được những mục tiêu đã đặt ra trong Luật, hơn bao giờ hết, cần có sự chỉ đạo thống nhất từ các cấp cao nhất và tiếp đến là sự đồng thuận, thống nhất của các bộ, ngành, địa phương.

Minh Thảo


Phạm Thu Hằng, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật