Kinh nghiệm gia nhập và thực hiện các công ước của Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế của Cộng hòa Liên bang Đức

29/02/2012
Triển khai Chương trình hợp tác 3 năm về pháp luật giữa Việt Nam và CHLB Đức và Chương trình đào tạo về hội nhập quốc tế của Bộ Tư pháp năm 2011, Bộ Tư pháp đã tổ chức Đoàn công tác đến thăm và làm việc với một số cơ quan Bộ, ngành của Đức trong thời gian từ ngày 11/9/2011 đến ngày 17/9/2011. Trong chuyến khảo sát này, Đoàn công tác đã được tìm hiểu, trao đổi kinh nghiệm và thực tiễn của Đức trong việc gia nhập Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế cũng như gia nhập và thực hiện một số Công ước trong khuôn khổ Hội nghị.

Đây là một trong những hoạt động của Bộ Tư pháp phục vụ cho việc triển khai nhiệm vụ “nghiên cứu, xây dựng đề án về khả năng Việt Nam gia nhập các công ước của Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế” mà Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tư pháp thực hiện[1].

Bài viết xin chia sẻ những thông tin, kinh nghiệm của Đức trong việc gia nhập Hội nghị La Hay cũng như thực tiễn thực thi các công ước trong khuôn khổ của Hội nghị.

1. Về kinh nghiệm gia nhập Hội nghị La Hay

Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế (HCCH) là một thiết chế được hình thành từ năm 1893, theo sáng kiến của nhà luật học T.M.C. Asser (người đã được trao giải Nô-ben vì hoà bình năm 1911). Năm 1955, Hội nghị La Hay chính thức trở thành một tổ chức quốc tế liên Chính phủ, trên cơ sở Hiến  chương của Hội nghị La  Hay về tư pháp quốc tế, có hiệu lực ngày 15/7/1955. Hiện nay, thành viên của tổ chức này gồm 72 thành viên đại diện cho mọi châu lục. Một điều đáng chú ý là kể từ  năm 2000, số lượng thành viên tham gia Hội nghị đã tăng lên gần gấp đôi. Chỉ tính riêng khu vực Châu Á, số lượng các quốc gia trở thành thành viên của Hội nghị đã lên tới 24 quốc gia. Một số nước ASEAN đã trở thành thành viên của Hội nghị  như Phi-líp-pin, Ma-lai-xia hoặc đang có xu hướng gia nhập Hội nghị như Thái Lan.

Hội nghị được đặt tại La Hay/Den Haag, Hà Lan, hiện có 72 thành viên (71 quốc gia thành viên và 1 thành viên là Liên minh Châu Âu). Bên cạnh đó, một số quốc gia chưa gia nhập Hội nghị, nhưng có gia nhập một số Công ước thuộc khuôn khổ của Hội nghị (trong đó có Việt Nam tuy chưa gia nhập Hội nghị nhưng đã là thành viên của Công ước La Hay ngày 29/5/1993 về Bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế).

Đức gia nhập Hội nghị La Hay năm 1955. Trước khi gia nhập Hội nghị, Bộ Tư pháp Liên bang Đức là cơ quan chủ trì đề xuất gia nhập Hội nghị La Hay, đã phối hợp chặc chẽ với Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao trong việc xây dựng đề xuất gia nhập. Theo kinh nghiệm của Bộ Tư pháp Đức, để thực hiện tốt nhiệm vụ chủ trì đề xuất gia nhập Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế cần:

a. Phải có sự đồng thuận của Bộ Tài chính và Bộ Ngoại giao;

b. Thảo luận về thành phần tham dự Hội nghị, trong đó phải có đại diện Bộ Tư pháp, Đại sứ quán Đức tại Amsterdam;

c. Tuyên truyền về lợi ích của việc gia nhập HCCH cho các bộ, ngành.

Sau khi gia nhập Hội nghị, bên cạnh các quyền lợi được hưởng, các quốc gia thành viên còn đối mặt với các thách thức như: (1) Cần góp sức thường xuyên với Hội nghị bằng cách gửi chuyên viên tham gia Hội nghị, tham gia xây dựng, soạn thảo, sửa đổi bổ sung các công ước. Nhằm nâng cao năng lực tham gia Hội nghị của các thành viên, Hội nghị La Hay cũng cho phép quốc gia thành viên cử cán bộ đến thực tập tại văn phòng Hội nghị tại La Hay, đây là cơ hội tốt để tạo lập quan hệ với đội ngũ chuyên gia, các nước. Tuy nhiên, người được cử đến phải có trình độ ngoại ngữ tốt; (2) Các quốc gia thành viên của Hội nghị phải cố gắng để phê chuẩn các Hiệp định, (3) Ngôn ngữ chính thức của Hội nghị là tiếng Anh, tiếng Pháp nên nhiều quốc gia không sử dụng hai thứ tiếng này gặp khó khăn khi tham gia.

Hiện nay, tại Châu Á có xu thế gia nhập HCCH cũng như những Công ước của HCCH. Đồng thời, khi xây dựng Luật Tư pháp quốc tế, các quốc gia Châu Á bao gồm cả các quốc gia đã là thành viên và chưa là thành viên Hội nghị thường tham khảo các quy định của các Công ước La Hay. Ví dụ:

a. Hàn Quốc: Là thành viên Hội nghị La Hay từ năm 1997, đã ban hành Luật Tư pháp quốc tế mà nội dung của luật này dựa vào nhiều nội dung của các Công ước La Hay. Trong những năm gần đây, Hàn Quốc tham gia ngày càng tích cực vào các hoạt động của HCCH;

b. Nhật Bản: Tham gia Hội nghị La Hay từ năm 1957, đã ban hành Luật Tư pháp quốc tế năm 2007, Nhật Bản đã gia nhập 6 Công ước của HCCH;

c. Trung Quốc: Là thành viên Hội nghị La Hay từ năm 1987, đã ban hành Luật Tư pháp quốc tế năm 2010;

d. Đài Loan: Ban hành Luật Tư pháp quốc tế năm 2010.

2. Kinh nghiệm gia nhập và thực hiện các Công ước của Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế

Việc gia nhập các Công ước của Hội nghị La Hay tạo điều kiện thuận lợi cho các nước không phải đàm phán, ký kết nhiều điều ước quốc tế song phương về cùng một vấn đề. Bên cạnh đó, các chuyên gia Đức cũng cho biết hiện xuất hiện sự cạnh tranh giữa các hệ thống pháp luật với các Công ước. Một ví dụ điển hình là Liên minh Châu Âu (EU), mặc dù là thành viên Hội nghị La Hay nhưng đang cố gắng xây dựng một hệ thống pháp luật thống nhất và trên thực tế, nhiều quy định pháp luật riêng của EU có giá trị áp dụng hơn các quy định của các Công ước.

Dù vậy, các Công ước La Hay hiện vẫn là sự lựa chọn tốt cho các nước mong muốn gia nhập. Đức khuyến khích các nước gia nhập các Công ước La Hay vì sự tiến bộ trong các quy định của các văn bản này. Thực tế, Đức hiện tham gia vào nhiều Công ước của Hội nghị, trong đó có một số Công ước liên quan trực tiếp đến tương trợ tư pháp được đề cập đến là Công ước về tống đạt giấy tờ tư pháp và ngoài tư pháp trong lĩnh vực dân sự và thương mại và Công ước về thu thập chứng cứ trong lĩnh vực dân sự và thương mại, Công ước miễn hợp pháp hóa các loại giấy tờ công vụ của nước ngoài.

Công ước La Hay về tống đạt giấy tờ tư pháp và ngoài tư pháp trong lĩnh vực dân sự và thương mại  là công ước có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của bị đơn. Tại cả 16 bang của Đức đều có cơ quan đầu mối thực hiện việc tống đạt giấy tờ, Sở Tư pháp Liên bang là cơ quan đầu mối thực hiện việc tống đạt giấy tờ ở trung ương. Bộ Tư pháp Liên bang chỉ giải quyết những vụ việc tống đạt giấy tờ liên quan đến Chính phủ, cơ quan nhà nước liên bang và những vụ việc có giá trị kinh tế lớn. Việc thực hiện Công ước đòi hỏi phải có nguồn nhân lực tốt, nhân viên thực hiện có chuyên môn, các mối quan hệ tốt. Do đó, cần duy trì đội ngũ cán bộ làm việc lâu dài, ổn định, tránh thay đổi vị trí công tác. Bên cạnh đó, pháp luật quốc gia của Đức quy định rõ ràng trách nhiệm của mỗi cơ quan địa phương đối với những nhóm vụ việc cụ thể. Hiện mỗi năm Cộng hòa Liên bang Đức xử lý khoảng 40.000 vụ việc về tống đạt giấy tờ.

Các quốc gia ở Châu Âu là thành viên của HCCH có xây dựng một hiệp định riêng về tống đạt giấy tờ, thu thập chứng cứ áp dụng trong khuôn khổ Châu Âu. Hiệp định này được xây dựng dựa trên các quy định của Công ước La Hay về tống đạt giấy tờ. Ở phạm vi Hội nghị La Hay, định kỳ 5 năm một lần HCCH tổ chức Hội nghị tổng kết của các quốc gia thành viên đánh giá và trao đổi kinh nghiệm trong việc thực hiện Công ước La Hay về tống đạt giấy tờ.

Công ước về thu thập chứng cứ ở nước ngoài trong lĩnh vực dân sự và thương mại năm 1970 cũng là công ước quan trọng trong tương trợ tư pháp giữa các quốc gia mà Đức đã gia nhập. Công ước này cụ thể, chi tiết các yêu cầu thu thập chứng cứ, tạo điều kiện cho việc thu thập chứng cứ được nhanh chóng, chính xác, đồng thời Công ước cũng khuyến nghị các nước sử dụng mẫu đơn thu thập chứng cứ có sẵn.

Công ước về các khía cạnh dân sự của hành vi bắt cóc trẻ em: Đức gia nhập Công ước này vào năm 1990. Công ước này quy định về vấn đề xung đột pháp luật, xử lý những vụ việc liên quan đến tranh chấp nuôi con và đưa đứa trẻ ra nước ngoài. Ở Đức có Luật tố tụng dân sự quốc tế quy định về vấn đề này. Trong đó, thời gian xét xử những vụ việc này tối đa là 6 tuần, Đức có 22 tòa án có thẩm quyền xét xử những vụ việc bắt cóc trẻ em, nhờ sự chuyên môn hóa này mà hiệu quả công tác xét xử ngày càng được nâng cao.

Công ước La Hay về Bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế là Công ước La Hay đầu tiên Việt Nam tham gia. Việt Nam đã phê chuẩn Công ước này vào ngày 18/7/2011, mở ra một trang mới trong quan hệ hợp tác nuôi con nuôi quốc tế với các quốc gia thành viên Công ước trong đó có Đức. Từ năm 2004 đến nay, khi Việt Nam và Đức không đạt được kết quả trong việc ký Hiệp định song phương về vấn đề nuôi con nuôi, việc nhận con nuôi Việt Nam từ các gia đình Đức có gặp khó khăn nhất định và số lượng thực tế cũng giảm đi. Do đó, Đức bày tỏ mong muốn được nối lại việc hợp tác nuôi con nuôi với Việt Nam trong thời gian sớm nhất.

Công ước miễn hợp pháp hóa các loại giấy tờ công vụ của nước ngoài. Hằng năm, Đức có khoảng 200.000 giấy tờ cần hợp pháp hóa. Việc xác nhận giấy tờ ở Đức thực hiện theo nguyên tắc cơ quan nào ký, ra quyết định giấy tờ thì xác nhận cho giấy tờ đó. Bộ Tư pháp Liên bang chỉ có trách nhiệm xác nhận đối với những trường hợp phức tạp, quan trọng.

Văn phòng Hội nghị La Hay yêu cầu các nước thành viên Công ước xây dựng cơ chế xác thực văn bản của mình. Tại Đức, cơ chế xác thực văn bản dựa trên 4 tiêu chí:

a. Chỉ rõ cơ quan hành chính chịu trách nhiệm xác thực, công nhận văn bản;

b. Có một hệ thống đăng ký rõ ràng, chi tiết;

c. Có biện pháp chống giả mạo các văn bản gốc;

d. Có hệ thống cán bộ công chức thực sự vì công việc, không bị ảnh hưởng bởi hối lộ, tham nhũng.

Bổ sung thông tin để Việt Nam nghiên cứu gia nhập Công ước này, Bộ Ngoại giao Đức cung cấp phương pháp xem xét đơn xin gia nhập Công ước về hợp pháp hóa lãnh sự của một quốc gia. Cụ thể là khi Bộ Ngoại giao nhận được thông tin từ Văn phòng Hội nghị La Hay là có một quốc gia xin gia nhập Công ước thì Bộ Ngoại giao sẽ yêu cầu Đại sứ quán Đức tại nước xin gia nhập cung cấp các thông tin liên quan để xem xét cơ chế xác thực văn bản tại nước của họ có đúng đắn và đáng tin cậy theo 4 tiêu chí nêu trên không? Bộ Ngoại giao Đức tin tưởng những báo cáo này của Đại sứ quán Đức do Đại sứ quán Đức tại quốc gia đó có thực tế về xác thực văn bản. Do đó, nếu báo cáo của Đại sứ quán Đức là tốt thì Bộ Ngoại giao chấp nhận quốc gia thành viên mới, nếu không tốt thì Bộ Ngoại giao sẽ phản đối quốc gia thành viên mới này. Trong trường hợp phản đối, Công ước không có hiệu lực giữa Đức và quốc gia thành viên bị phản đối đó. Khi nào Đức nhận thấy quốc gia thành viên bị phải đối đã đáp ứng 4 tiêu chí xác thực văn bản nêu trên lúc đó Đức sẽ dỡ bỏ phản đối này thì Công ước mới có hiệu lực giữa Đức và quốc gia đã bị phản đối.

3.Thực tiễn tương trợ tư pháp giữa Đức và Việt Nam

Hiện có hơn 100.000 người Việt đang sinh sống tại Đức, do đó nảy sinh nhiều mối quan hệ pháp lý giữa công dân Đức và công dân Việt Nam. Để giải quyết những mối quan hệ pháp lý này, có thể dẫn đến xung đột về luật áp dụng. Có một số cách để giải quyết những xung đột này, bao gồm: áp dụng điều ước quốc tế đa phương; áp dụng các điều ước quốc tế song phương (tuy nhiên Đức chủ trương hạn chế ký các điều ước quốc tế song phương, trong vòng 50 năm qua Đức không ký điều ước song phương nào trong lĩnh vực tố tụng dân sự quốc tế); áp dụng nguyên tắc có đi có lại khi chưa có điều ước quốc tế điều chỉnh. 

Thực tiễn hoạt động tương trợ tư pháp giữa Đức và Việt Nam, Đoàn khảo sát nhận thấy, vấn đề tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Đức đang được thực hiện theo nguyên tắc có đi có lại do chưa có điều ước quốc tế. Quy trình này thông qua con đường ngoại giao và hiện kéo dài về thời gian (Cụ thể: Hồ sơ xin tương trợ tư pháp gửi Bộ Ngoại giao => Sở Tư pháp Liên bang => Sở Tư pháp bang => Tòa án).

Nếu có điều ước quốc tế điều chỉnh, cụ thể là các Công ước La Hay liên quan thì quy trình tương trợ tư pháp sẽ đơn giản hơn, rút ngắn thời gian hơn (Cụ thể: Đơn xin tương trợ tư pháp => Sở Tư pháp Liên bang =>các cơ quan đầu mối). Đại diện Sở Tư pháp Liên bang cũng nêu rõ, tại Đức có 7 bang thành lập cơ quan đầu mối (Tòa án kiêm cơ quan đầu mối), 9 bang thành lập cơ quan đầu mối trực thuộc Bộ Tư pháp bang. Sở Tư pháp Liên bang là cơ quan đầu mối ở Trung ương thực hiện các yêu cầu tương trợ tư pháp.

Về thời gian thực hiện tương trợ tư pháp của phía Việt Nam gửi sang Đức thường kéo dài, hiệu quả ủy thác tư pháp về dân sự rất hạn chế. Đại diện Sở Tư pháp Liên bang cho rằng do thời gian chuyển hồ sơ tương trợ tại Đức không có quy định cụ thể mà chỉ quy định chung trong EU là cố gắng giải quyết trong 14 ngày nên có thể bị chậm trễ. Bên cạnh đó, việc cung cấp bản dịch tiếng Đức không chính xác, yêu cầu tương trợ tư pháp không rõ ràng, thiếu hợp pháp hóa lãnh sự và tên người Việt khó cũng là những nguyên nhân gây chậm trễ trong quá trình thực hiện tương trợ tư pháp nói chung và tống đạt giấy tờ nói riêng.

4. Một số nội dung khác

a. Về các hỗ trợ của Hội nghị La Hay

Hiện nay, Văn phòng Hội nghị La Hay hỗ trợ cho các thành viên và các nước mong muốn gia nhập Công ước. Bên cạnh đó, mạng lưới thẩm phán giao liên La Hay góp phần quan trọng vào việc tìm kiếm trao đổi thông tin liên quan đến vụ việc, đặc biệt là các vụ bắt cóc trẻ em. Hiện có 60 thẩm phán giao liên trong tổng số 40 quốc gia. Hội nghị La Hay không quy định số lượng cụ thể các thẩm phán giao liên tại quốc gia thành viên mà chỉ quy định ít nhất là 1 vị và không quá nhiều, ví dụ: Canada có 2, Mỹ có 4, Đức có 2, thông thường các nước có 1 thẩm phán giao liên. Các thẩm phán giao liên nhóm họp với các cơ quan đầu mối thực hiện Công ước định kỳ 5 năm một lần để trao đổi, rút kinh nghiệm.

Cùng với sự hiện diện của thẩm phán giao liên, mạng lưới luật sư giao liên trong giải quyết các vụ việc bắt cóc trẻ em theo Công ước về các khía cạnh dân sự của hành vi bắt cóc trẻ em cũng được đề cập đến. Cụ thể là những vụ việc người mẹ mang con đến nước khác sinh sống, người cha có đơn yêu cầu mang đứa trẻ quay lại nơi ở cũ thì thông thường Tòa án giải quyết nhanh chóng và phán quyết thường là đưa đứa trẻ trở lại nơi ở cũ (người mẹ có thể cùng về với con hoặc không) với quan điểm đưa đứa trẻ lại nơi chúng gắn bó, thân quen, có nhiều kỷ niệm, bạn bè nhằm giúp đứa trẻ phát triển tốt nhất, ổn định về mọi mặt. Việc giải quyết này nếu có sự giúp sức của luật sư giao liên và thầm phán giao liên La Hay sẽ được tiến hành nhanh hơn với những thông tin đầy đủ.

b. Về tổ chức của Bộ Tư pháp Liên bang

Cơ cấu Tổ chức của Bộ Tư pháp Liên bang Đức gồm 6 Tổng vụ, 12 Vụ, 1 cơ quan đại diện tại Born, 1 cơ quan đại diện liên bang về các vấn đề nhân quyền (cụ thể xem tài liệu tham khảo). Bộ Tư pháp Liên bang Đức có tổng cộng 683 nhân viên (cập nhật đến ngày 26/11/2010), trong đó có 116 nữ, 266 nhân viên là luật gia. Trong số 266 luật gia này có 89 thẩm phán, công tố viên cũng như công chức nam nữ ở các bang được cử về để công tác trong vòng 2-3 năm. Các thẩm phán được cử về Bộ trong thời gian này không làm việc với tư cách một thẩm phán mà làm việc với tư cách là nhân viên của Phòng chuyên môn. Mục đích của sự luân chuyển này là mang kinh nghiệm, thực tiễn ở địa phương về Bộ công tác, góp phẩn bổ sung thực tiễn vào quá trình làm luật ở Bộ và khi trở về địa phương công tác, những người này sẽ có thêm kinh nghiệm làm luật ở Bộ.

Bộ Tư pháp Liên bang Đức có một chi nhánh tại thành phố Born với 24 cán bộ, công chức.

c. Về chế định trọng tài

Ở Đức ghi nhận có 3 cấp độ về giải quyết trọng tài là trong phạm vi nước Đức, trong phạm vi Châu Âu và trên toàn cầu. Ở cấp độ quốc gia, năm 1998 Đức đã xây dựng Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuy nhiên, Đức cũng đang nghiên cứu có nên đưa thêm quy định về hòa giải ngoài tòa án (giống như quy định của Luật tố tụng dân sự Việt Nam) vào Bộ luật này hay không?

Ở cấp độ Châu Âu, tuy chưa xây dựng tòa trọng tài riêng để giải quyết các tranh chấp về thương mại và đầu tư nhưng Liên minh Châu Âu sẵn sàng hỗ trợ giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Đồng thời, Liên minh Châu Âu cũng quy định các bên cần thỏa thuận công nhận quyết định trọng tài trước khi áp dụng cơ chế này.

Ở cấp độ quốc tế, hiện cả Đức và Việt Nam đều đã tham gia Công ước công nhận và thi hành các quyết định trọng tài nước ngoài năm 1958 (gọi tắt là Công ước New York). Vì vậy, việc giải quyết tranh chấp thương mại, đầu tư bằng cơ chế trọng tài có cơ sở để tiến hành ở cả hai quốc gia. Bên cạnh đó, phía Đức cũng đang tích cực tham gia vào nhóm công tác thứ 2 của UNCITRAL nhằm minh bạch hóa phán quyết trọng tài, giảm bớt chi phí trọng tài và giảm thiểu thời gian giải quyết tranh chấp cũng như sử dụng Tiếng Anh như ngôn ngữ chính thức trong giải quyết tranh chấp bằng cơ chế trọng tài.

 Phòng Tương trợ tư pháp, Vụ Hợp tác quốc tế


[1] Thủ tướng Chính phủ tại Công văn số 3241/VPCP-QHQT ngày 20/05/2008 và Công văn số 244/VPCP-QHQT ngày 12/01/2011 của Văn phòng Chính phủ, trong đó giao Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan “nghiên cứu, xây dựng đề án về khả năng Việt Nam gia nhập các công ước của Hội nghị La Hay về tư pháp quốc tế”