10 năm công tác hoà giải ở cơ sở ở một huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi

21/07/2008
Trà Bồng là một huyện miền núi thuộc tỉnh Quảng Ngãi gồm 9 xã và 01 thị trấn với dân số 30.174 người, trong đó có 6.824 hộ với 05 dân tộc khác nhau đang sinh sống (Kinh, Kor, H’re, Càdong, Mường), vì có đặc điểm như vậy nên cuộc sống của người dân nơi đây bị chi phối, điều chỉnh bởi nhiều phong tục, tập quán khác nhau. Và những mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh trong bộ phận dân cư là điều không thể tránh khỏi.

Nhận thức được tầm quan trọng của công tác hoà giải ở cơ sở là một hoạt động thiết thực góp phần giữ vững ổn tình tình hình an ninh trật tự, xây dựng tình làng nghĩa xóm, giữ gìn tình đoàn kết trong nội bộ nhân dân, củng cố phát huy những tình cảm và truyền thống đạo lý tốt đẹp trong gia đình và cộng đồng dân cư, phòng ngừa và hạn chế vi phạm pháp luật, 10 năm qua, chính quyền huyện đã không ngừng tăng cường thực hiện công tác này ở cơ sở, xây dựng, củng cố đội ngũ hoà giải viên, phát huy hoạt động hoà giải ở cơ sở ngày càng có hiệu quả.

Trước khi Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở ban hành (1998), phần lớn việc hoà giải ở cơ sở mang tính tự phát, chủ yếu được thực hiện bởi những người lớn tuổi, có uy tín trong thôn, buôn, làng, bản, ấp… như Trưởng thôn, trưởng bản, già làng, trưởng tộc, họ… Theo thống kê của Phòng Tư pháp ở thời điểm này chỉ có 15 tổ hoà giải chủ yếu tập trung ở vùng thị trấn và các xã lân cận, còn ở các xã vùng sâu như Trà Trung, Trà Xinh (Trà Bồng chưa tách huyện) thì không thành lập tổ hoà giải. Sau khi Pháp lệnh được ban hành và có hiệu lực thì việc xây dựng và kiện toàn tổ chức tổ hoà giải ở thôn, tổ dân phố, khu dân cư…tương đối đầy đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng, đến nay đã có 82 tổ hoà giải với 226 hoà giải viên, đồng thời thực hiện ít nhất ở mỗi thôn, tổ thành lập 01 tổ hoà giải. Cơ cấu thành phần tổ viên tổ hoà giải rất đa dạng như Mặt trận, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Trưởng thôn… tuỳ từng đặc điểm ở mỗi thôn, làng, bản giới thiệu những người có uy tín, am hiểu pháp luật, hương ước, quy ước, tập quán tốt đẹp ở địa phương để bầu làm hoà giải viên. Nhìn chung số hoà giải viên được tăng lên đáng kể và đảm bảo chất lượng, trình độ học vấn của tổ viên tổ hoà giải có 31,6% có trình độ tốt nghiệp THPT, 17,9% có trình độ trung học chuyên nghiệp và 50,5% có trình độ THCS. Ngoài ra, các hoà giải viên thường xuyên được tập huấn các văn bản pháp luật, được bồi dưỡng nghiệp vụ về phổ biến giáo dục pháp luật, các kỹ năng về hoà giải do Sở Tư pháp hoặc Phòng Tư pháp tổ chức…hoặc thông qua các cuộc thi Hoà giải viên giỏi tổ chức ở từng cấp để nâng cao kiến thức pháp luật và kỹ năng hoà giải cho hoà giải viên.

Việc hoà giải các tranh chấp, mâu thuẫn xảy ra trong thôn, khu dân cư được tiến hành đảm bảo các nguyên tắc trong công tác hoà giải ở cơ sở, phù hợp với đường lối, chủ trương, chính sách của đảng, pháp luật của nhà nước, trong đó có áp dụng các phong tục, tập quán, đạo đức tốt đẹp của nhân dân, kịp thời ngăn chặn vi phạm pháp luật đồng thời hạn chế những hậu quả lớn hơn có thể xảy ra. Mười năm qua, số vụ việc được tiến hành hoà giải trên địa bàn huyện là 868 vụ, trong đó hoà giải thành được 794 vụ, chủ yếu là các vụ việc tranh chấp trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, đất đai, bảo vệ và phát triển rừng. Các vụ việc hoà giải không thành được hoà giải viên hướng dẫn chuyển cơ quan có thẩm quyền giải quyết, tránh tình trạng khiếu nại vượt cấp, khiếu nại kéo dài trong nhân dân.

Công tác hoà giải ở cơ sở đã dần khẳng định được vai trò trong việc giữ gìn an ninh trật tự trong cộng đồng dân cư địa phương, ngăn ngừa mầm mống phát sinh vi phạm pháp luật, hạn chế đơn thư khiếu kiện của dân, tiết kiệm được thời gian, công sức, tiền bạc của Nhà nước và nhân dân. Tuy nhiên, hoạt động hoà giải ở cơ sở hiện nay còn có những khó khăn, vướng mắc do các yếu tố khách quan cũng như chủ quan. Ở nhiều xã, các cấp uỷ, chính quyền chưa thật sự quan tâm đến công tác hoà giải ở cơ sở, chưa có sự phối hợp giữa các ban ngành để tiến hành hoà giải những tranh chấp, mâu thuẫn mang tính phức tạp, bên cạnh đó vai trò tham mưu của cán bộ tư pháp xã, thị trấn còn lúng túng, chưa nắm bắt kỹ những quy định của pháp luật về công tác hoà giải ở cơ sở, nên công tác kiểm tra, hướng dẫn chưa được làm đến nơi, đến chốn. Nguyên nhân là do cán bộ tư pháp thường xuyên được luân chuyển, đề bạt, hoặc thay thế, nên những người mới tiếp nhận công tác không thể nắm bắt ngay được việc quản lý công tác hoà giải ở địa phương. Một khó khăn nữa là vấn đề kinh phí cho công tác hoà giải hiện nay đang thực sự bị bỏ ngõ, theo quy định hiện hành thì một vụ việc được hoà giải thành ở cơ sở có thể được trả thù lao từ 50 đến 120 ngàn đồng, tuy nhiên kinh phí này lại phụ thuộc vào ngân sách địa phương và hầu như ở tất cả các địa phương đều không phân bổ kinh phí cho công tác này.

Tìm hiểu nguyên nhân để biết vì sao chủ trương đã đưa ra, quy định pháp luật cũng đã có rồi, nhưng kinh phí lại không được phân bổ? Có ba nguyên nhân cơ bản, thứ nhất đó là ngân sách địa phương không đảm bảo, là một huyện miền núi với đặc điểm dân cư đa số là người dân tộc thiểu số thì nguồn thu vào ngân sách rất thấp hàng năm phải có sự hỗ trợ từ ngân sách cấp tỉnh để đảm bảo các hoạt động của bộ máy chính quyền địa phương. Thứ hai, nếu ngân sách có, nhưng lại không có cơ sở để xác định các vụ việc đã tiến hành hoà giải được phép chi theo quy định, có thể xem biên bản hoà giải là chứng từ duy nhất xác định vụ việc đã được hoà giải, tuy nhiên khi tiến hành hoà giải, hoà giải viên không phải lập biên bản nếu không có yêu cầu của các bên đương sự, sau khi tiến hành hoà giải, hoà giải viên ghi vào sổ để theo dõi, như vậy sổ theo dõi đó có được xem là một chứng từ để được thanh toán hay không? Nguyên nhân thứ ba mang tính nhạy cảm hơn, đó là lâu nay, các hoà giải viên thực hiện hoà giải ở cơ sở chủ yếu dựa vào uy tín của bản thân, làm việc với mục đích vì lẽ phải, vì lợi ích chung của cộng đồng, xã hội và bản thân các bên đương sự, nếu biết hoặc thấy hoà giải viên nhận được tiền thù lao khi vụ việc tranh chấp, mâu thuẫn được hoà giải thành, các bên đang xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn sẽ có thái độ thiếu tích cực, hợp tác trong việc giải quyết vụ việc, ảnh hưởng đến niềm tin của người dân đối với những người làm công tác hoà giải ở cơ sở… Được biết khó khăn này không chỉ riêng đối với huyện Trà Bồng mà đây là khó khăn chung trong công tác hoà giải ở cơ sở của cả tỉnh, cả nước. Vì vậy, trong thời gian tới nhà nước cần phải có những chính sách, chế độ phù hợp để công tác hoà giải ở cơ sở cả nước nói chung và của huyện nhà nói ngày càng đi vào nề nếp và đạt hiệu quả hơn nữa.

Thanh Ngọc