Quảng Ngãi: Đổi mới và từng bước phát triển của công tác văn bản

28/08/2007
Xây dựng và nâng cao chất lượng công tác văn bản là một trong những mục tiêu quan trọng đang được hướng đến trong chiến lược cải cách tư pháp và thể chế nền hành chính mà Đảng và Nhà nước ta đề ra. Nhận thức đúng tầm quan trọng và để thực hiện được mục tiêu này, Sở Tư pháp luôn quan tâm đầu tư về nhiều mặt để nâng cao chất lượng công tác văn bản.

Chính vì vậy, hoạt động văn bản của Sở Tư pháp, các địa phương trong tỉnh năm 2006 và 6 tháng đầu năm 2007 đã có sự đổi mới toàn diện và từng bước phát triển trên nhiều mặt so với những năm trước. Sự đổi mới và bước phát triển được thể hiện từ việc tham mưu ban hành cơ chế, chính sách cho đến thực hiện các quy trình lập Chương trình, soạn thảo, thẩm định, ban hành, kiểm tra, rà soát và hệ thống hoá văn bản.

Trước hết, để đảm bảo hành lang pháp lý cho hoạt động văn bản thực sự có hiệu quả và đúng với chức năng là cơ quan giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh quản lý Nhà nước về hoạt động văn bản trên địa bàn tỉnh, một mặt Sở Tư pháp đã chủ động tham mưu Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành Quy định về trình tự, thủ tục xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Chỉ thị về tăng cường công tác kiểm tra và xử lý văn bản, các quy định hỗ trợ kinh phí cho công tác xây dựng và kiểm tra văn bản và thành lập đội ngũ cộng tác viên  kiểm tra văn bản của tỉnh với 36 cộng tác viên, tạo sự phối hợp đồng bộ của các Sở, ngành trong hoạt động văn bản, từ đó nâng cao chất lượng xây dựng, kiểm tra văn bản được chuyên sâu và toàn diện. Mặt khác, kết hợp với việc kiểm tra văn bản theo thẩm quyền, Sở đã chủ động làm việc trực tiếp với Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các huyện và hướng dẫn cho các Phòng Tư pháp triển khai thực hiện tốt công tác văn bản trên địa bàn, chính vì vậy công tác văn bản của các huyện ngày càng được nâng lên.

          Đối với công tác lập chương trình xây dựng văn bản, vào tháng 11 hàng năm Sở Tư pháp đều tham mưu Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành Chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của năm sau để làm cơ sở cho việc xây dựng và ban hành văn bản. Đây là một cố gắng lớn của Sở Tư pháp và các Sở, ngành trong việc phối hợp để thực hiện việc tham mưu xây dựng và ban hành văn bản không bị thụ động mà có chương trình, kế hoạch cụ thể; từ đó xác định rõ trách nhiệm và làm cơ sở cho các cơ quan chuyên môn chủ động trong khâu soạn thảo, thẩm định, trình ban hành văn bản đúng thời hạn và trình tự, thủ tục theo quy định.

Trên cơ sở quy định về quy trình xây dựng và ban hành văn bản do Sở tham mưu Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành đã góp phần rất lớn trong hoạt động soạn thảo văn bản, từng bước đưa công tác soạn thảo của các cơ quan chuyên môn của tỉnh và cấp huyện đi vào nề nếp; việc tổ chức lấy ý kiến vào dự thảo văn bản đã được các cơ quan dự thảo quan tâm hơn; các cấp, các ngành đã nhận thức được tầm quan trọng của công tác này và đã chỉ đạo chặt chẽ hơn. Chính vì vậy, chất lượng văn bản soạn thảo ngày được nâng lên, sát với thực tiễn hơn.          

Trong công tác thẩm định văn bản, phương pháp, cách thức và chất lượng thẩm định đã có sự đổi mới và nâng cao. Thường thì trước đây văn bản góp ý được thể hiện bằng công văn và tập trung vào hai vấn đề chính là hình thức và nội dung của văn bản, nhưng hiện nay việc thẩm định đã được thể hiện bằng báo cáo và đi sâu hơn vào từng nội dung cụ thể như: Sự cần thiết ban hành; đối tượng, phạm vi điều chỉnh; tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất với hệ thống pháp luật; ngôn ngữ soạn thảo văn bản và đặc biệt là đã đánh giá, nhận định tính khả thi đối với từng văn bản quy phạm sau khi ban hành. Việc thẩm định không chỉ dừng lại ở mức độ xem xét sự tuân thủ pháp luật của dự thảo văn bản đối với các quy định hiện hành, mà còn đưa ra các dẫn chứng thực tiễn và những ý kiến phản biện để các cơ quan dự thảo nghiên cứu và điều chỉnh. Cũng chính việc chất lượng văn bản thẩm định được nâng lên đã tác động trực tiếp đến số lượng, chất lượng ban hành hàng năm của Uỷ ban nhân dân tỉnh đảm bảo đúng với quy định của pháp luật và phù hợp với thực tiễn ở địa phương. Năm 2006, tiếp nhận thẩm định gần 160 dự thảo, nhưng sau khi thẩm định chỉ có 71 văn bản có đủ điều kiện ban hành hoặc trong 6 tháng đầu năm 2007 tiếp nhận thẩm định 68 dự thảo nhưng chỉ ban hành 23 văn bản.   

Trong lĩnh vực kiểm tra văn bản, sự đổi mới được thể hiện trong từng hoạt động kiểm tra. So với mảng thẩm định thì kiểm tra văn bản có phạm vi khá rộng, bao gồm việc tự kiểm tra văn bản do Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành; kiểm tra, rà soát văn bản theo ngành, lĩnh vực chuyên môn và kiểm tra văn bản theo thẩm quyền đối với cấp huyện. Trước đây, khi Chính phủ ban chưa hành Nghị định 135 thì Sở Tư pháp Quảng Ngãi đã được xem là một trong những tỉnh đi đầu trong công tác kiểm tra văn bản. Nhưng tính đến thời điểm trước 2005, cũng chỉ dừng lại ở việc kiểm tra văn bản theo thẩm quyền đối với cấp huyện, còn các các hoạt động khác của kiểm tra văn bản chưa thực hiện được. Sang đầu năm 2006 đến nay, công tác kiểm tra văn bản được tiến hành đồng bộ trên các mặt. Trong việc tự kiểm tra văn bản của Uỷ ban nhân dân tỉnh, với quan điểm là “hậu kiểm” tất cả các văn bản mà Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành, kể cả văn bản cá biệt có chứa đựng quy phạm, sau kiểm tra Sở đã kiến nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh huỷ bỏ các văn bản trái pháp luật và sửa đổi, bổ sung các văn bản chưa phù hợp với pháp luật hiện hành và đều được Uỷ ban nhân dân tỉnh nhất trí quyết định huỷ bỏ hoặc sửa đổi, bổ sung. Đi đôi với công tác tự kiểm tra, công tác kiểm tra, rà soát văn bản cũng được tiến hành thường xuyên. Tính từ đầu năm 2006 đến nay, Sở đã chủ trì phối hợp với các ngành chức năng tổ chức rà soát văn bản trên các lĩnh vực Giao thông, dân sự, tư pháp, tài chính, cư trú, WTO và kinh doanh bất động sản, số lượng văn bản được rà soát trên 222 văn bản, đã kiến nghị xử lý trên 22 văn bản.

Sự đổi mới trong công tác kiểm tra văn bản của cấp huyện là việc mở rộng đối tượng và nội dung kiểm tra. Đối tượng kiểm tra văn bản của cấp huyện không chỉ dừng lại ở Uỷ ban nhân dân mà kiểm tra cả văn bản của Hội đồng nhân dân. Đối với nội dung kiểm tra, trước kia chỉ kiểm tra các văn bản đã ban hành, nay mở rộng thêm kiểm tra cả công tác quản lý Nhà nước về công tác văn bản. Đó là kiểm tra công tác tham mưu xây dựng và ban hành văn bản; thẩm tra, thẩm định; công tác tự kiểm tra, rà soát; việc gửi văn bản đến cơ quan cấp trên có thẩm quyền để giám sát kiểm tra và công tác kiểm tra văn bản hàng năm đối với cấp xã theo quy định của Nghị định 135 của Chính phủ. Trong quá trình kiểm tra, đối với những văn bản chuyên ngành mang tính đặc thù như trong lĩnh vực thuế, tài chính, đất đai, khoa học, xây dựng, giao thông, công nghiệp Sở đều mời cộng tác viên hoặc các chuyên gia cùng phối hợp nhằm nâng cao chất lượng kiểm tra. Việc kiểm tra một cách toàn diện hoạt động ban hành và quản lý văn bản đã thực sự nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác văn bản của cấp huyện; cơ quan chuyên môn và lãnh đạo huyện đã nhận thức đúng về tầm quan trọng của công tác văn bản trong quản lý Nhà nước. Các kiến nghị của Sở đã được Lãnh đạo các huyện nhất trí, đồng tình và khắc phục, sửa đổi. Số lượng đơn vị kiểm tra các huyện theo định kỳ hàng năm duy trì ở mức cao, năm 2006 Sở tổ chức kiểm tra văn bản tại Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân của 6 huyện với 39.800 văn bản, phát hiện 2.105 văn bản sai sót, kiến nghị sửa đổi, bổ sung, thay thế và huỷ bỏ 172 văn bản sai sót về nội dung. Sáu tháng đầu năm 2007 cũng đã hoàn thành việc kiểm tra văn bản tại bốn huyện Mộ Đức, Minh Long, Trà Bồng và Sơn Tây.

Một lĩnh vực công tác có bước tiến đáng kể đó là công tác rà soát, hệ thống hoá văn bản. Để triển khai thực hiện công tác rà soát, hệ thống hoá thì không phải địa phương nào cũng làm được bởi vì hiện nay Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân năm 2004 chỉ mới quy định có một điều; chưa có nghị định của Chính phủ và thông tư của Bộ, ngành hướng dẫn cụ thể; các cấp, các ngành chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của công tác này; đồng thời để làm được việc rà soát, hệ thống hoá đòi hỏi công tác văn bản của địa phương đó phải mạnh vì đây là lĩnh vực mới, yêu cầu về năng lực, trình độ chuyên môn của đội ngũ làm công tác văn bản phải vững. Trước kia, Sở Tư pháp đã rà soát, hệ thống hoá văn bản của Uỷ ban nhân dân tỉnh năm 1995 và thực hiện tổng rà soát văn bản trong 20 năm theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ nhưng kết quả đem lại chưa hoàn chỉnh; Uỷ ban nhân dân tỉnh có chỉ đạo xuất bản văn bản của Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành từ năm 1998-2002; rà soát, xuất bản hệ thống hoá văn bản của Uỷ ban nhân dân tỉnh trong lĩnh vực khiếu nại, tố cáo nhưng việc triển khai do Văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh thực hiện và cũng chỉ ở mức độ tập hợp hoá và chưa công bố được các danh mục văn bản còn hiệu lực, hết hiệu lực và danh mục văn bản cần sửa đổi, bổ sung. Để khắc phục tình hình trên, vào cuối năm 2006, Sở Tư pháp đã tham mưu cho Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo việc rà soát, hệ thống hoá văn bản của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành về lĩnh vực đất đai trong 10 năm từ 1996-2006. Việc tổ chức hệ thống hoá lần này đã huy động được các chuyên gia, công tác viên giỏi của các Sở, ngành và đội ngũ làm công tác văn bản của Sở để tham gia và thực hiện đầy đủ, đúng quy trình của nội dung rà soát, hệ thống hoá, đó là: Tra cứu, thu thập văn bản; nghiên cứu, đối chiếu với quy định của pháp luật để loại bỏ những văn bản chồng chéo, mâu thuẫn; quyết định công bố danh mục văn bản hết hiệu lực, còn hiệu lực, sửa đổi, bổ sung và xuất bản sách hệ thống hoá văn bản cấp cho các cấp, các ngành trong tỉnh làm cơ sở áp dụng thực hiện. Hiện nay, công tác này đang được Sở chủ trì tổ chức thực hiện và sẽ hoàn thành vào cuối năm nay. Đây là tiền đề cho việc rà soát, hệ thống văn bản của tỉnh trên các lĩnh vực khác trong những năm tiếp theo.

Nhìn chung hoạt động văn bản còn gặp rất nhiều khó khăn nhưng Sở Tư pháp luôn quan tâm chỉ đạo thực hiện toàn diện các nội dung của công tác văn bản đã góp phần không nhỏ đưa công tác xây dựng, ban hành văn bản của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân tỉnh và các cấp trong tỉnh có hiệu lực, hiệu quả, ngày càng hoàn thiện hệ thống pháp luật của địa phương./.                                                           

Hữu Duy