Diễn đàn đối tác pháp luật - thiết chế thường niên về đối thoại hợp tác pháp luật

15/12/2011
Diễn đàn đối tác pháp luật - thiết chế thường niên về đối thoại hợp tác pháp luật
Ngày 14  tháng 12 năm 2011, Diễn đàn đối tác pháp luật đã được Bộ Tư pháp và Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) đồng tổ chức tại Hà Nội. Thứ trưởng Tư pháp Hoàng Thế Liên  và Bà Pratibha  Mehta, Điều phối viên thường trú của Liên hợp quốc tại Việt Nam đồng chủ trì Hội nghị.  Bà Lê Thị Thu Ba, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chánh Văn phòng Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương đã tham dự và trình bày tham luận tại Hội nghị.

Phát biểu khai mạc Diễn đàn đối tác pháp luật, thay mặt Lãnh đạo Bộ Tư pháp, Thứ trưởng Hoàng Thế Liên chào mừng sự có mặt của tất cả các vị khách Việt Nam và quốc tế tại Diễn đàn, đồng thời cám ơn sự ủng hộ và giúp đỡ quý báu mà cộng đồng quốc tế đã dành cho Việt Nam trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp.  Trong bài phát biểu của mình, Thứ trưởng Hoàng Thế Liên đã chia sẻ với các đại biểu tham dự Diễn đàn những thành tựu quan trọng về kinh tế - xã hội của Việt Nam trong năm qua. Thứ trưởng đánh giá cao việc Diễn đàn đã được tổ chúc trong bối cảnh Chính phủ Việt Nam và các đối tác phát triển vừa tổ chức thành công Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam (Hội nghị CG)  năm 2011 với chủ đề “Thúc đẩy tái cơ cấu kinh tế và giảm nghèo”. Con số viện trợ phát triển chính thức (ODA) là 7,386 tỉ USD mà các đối tác phát triển cam kết tại Hội nghị CG này khẳng định việc các nhà tài trợ vẫn luôn đồng hành cùng Chính phủ Việt Nam trong thực hiện cải cách kinh tế vĩ mô, tái cơ cấu kinh tế và hỗ trợ giảm nghèo. Trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới đang có những diễn biến phức tạp, thâm hụt ngân sách và khủng hoảng nợ công, những bất ổn về chính trị, xã hội và thiên tai làm cho tình hình kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại và đứng trước những thách thức mới trong phát triển, việc Chính phủ Việt Nam đã đạt được những thành công nhất định trong xử lý, điều hành kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát là rất đáng ghi nhận. Có được kết quả này, một phần phải kể đến sự hỗ trợ có hiệu quả của cộng đồng các nhà tài trợ mà Chính phủ Việt Nam luôn hết sức trân trọng và  đánh giá cao.

Cũng trong bài phát biểu khai mạc Hội nghị, Bà Pratibha Mehta, Điều phối viên thường trú của Liên hợp quốc tại Việt Nam đặc biệt đánh giá cao ý nghĩa và vai trò của Diễn đàn đối tác pháp luật trong đối thoại phát triển của Việt Nam nói chung và điều phối hợp tác pháp luật và tư pháp nói riêng. Bà Mehta đánh giá cao những chủ đề đã được lựa chọn thảo luận tại Hội nghị lần này và khẳng định đó chính là những nội dung mà cộng đồng quốc tế rất quan tâm và luôn sẵn sàng hỗ trợ. Cụ thể hơn, Bà Mehta đã đưa ra cam kết của Liên Hợp quốc trong  việc sẽ đồng hành cùng Chính phủ Việt Nam tiếp tục những nghiên cứu mang tính chính sách pháp luật, đáp ứng nhu cầu quốc gia của Việt Nam.  Liên quan đến quan hệ đối tác, Liên hợp quốc cam kết sẽ tiếp tục hỗ trợ đối thoại chính sách nhằm chia sẻ các kinh nghiệm về  cải cách  pháp luật và tư pháp thông qua các Diễn đàn đối tác pháp luật được tổ  chức thường niên và qua các diễn đàn đối thoại chính sách pháp luật, dự kiến được Liên hợp quốc và Bộ Tư pháp tổ chức hàng quý.

Diễn đàn đối tác pháp luật năm nay diễn ra trong bối cảnh Chính phủ và nhân dân Việt Nam đang tiếp tục đẩy mạnh thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2011-2015), hướng tới mục tiêu sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trên cơ sở dự báo tình hình trong nước và quốc tế, Chính phủ Việt Nam đã đặt ra những mục tiêu tổng quát cho năm 2012 là ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì mức tăng trưởng hợp lý gắn với mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo đảm phúc lợi xã hội và an sinh xã hội, cải thiện đời sống nhân dân; giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội; nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế. Một trong các giải  pháp, cơ chế chính sách chủ yếu mà Chính phủ Việt Nam đã đề ra để đạt được các mục tiêu trên là “tăng cường và phát huy hiệu quả của công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế sâu rộng hơn và nâng cao hiệu quả hội nhập”. Diễn đàn đối tác pháp luật được tổ chức trong bối cảnh này là một trong các sự kiện thực hiện giải pháp quan trọng này.

Trong bài phát biểu khai mạc Hội nghị, Thứ trưởng Hoàng Thế Liên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và các cơ quan tư pháp như là một trong những công cụ và điều kiện tiên quyết của  phát triển kinh tế và đạt mục tiêu công bằng xã hội. Thứ trưởng đánh giá cao tầm quan trọng của các giải pháp về pháp luật và tư pháp đang được triển khai đồng bộ theo tinh thần của các Nghị quyết số 48/TW - NQ về Chiến lược phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam tới năm 2010, định hướng tới năm 2020 (Chiến lược pháp luật) và Nghị quyết số 49/TW-NQ của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Chiến lược tư pháp).

Với mục đích trao đổi, ghi nhận những thành tựu nổi bật nhất về các hoạt động lập pháp và thực thi pháp luật của Việt Nam trong năm qua, tại Phiên thảo luận thứ nhất, Hội nghị đã thảo luân về một số định hướng lớn về việc tiếp tục triển khai thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp trong thời gian tới. Đại diện Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp TW đã cập nhật tình hình, kết quả công tác cải cách tư pháp và trình bày những nội dung chính của Chương trình trọng tâm cải cách tư pháp giai đoạn 2011 – 2016 với những nhiệm vụ chủ yếu cần được triển khai thực hiện trên tất cả các lĩnh vực: về hoàn thiện chính sách pháp luật về hình sự, dân sự và tố tụng tư pháp; về việc hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp; về tổ chức, hoạt động bổ trợ tư pháp; về xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp; về việc giám sát của các cơ quan dân cử; về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp và; về bảo đảm cơ sở vật chất phục vụ các hoạt động tư pháp.

Hội nghị cũng đã nghe đại diện của Văn phòng Quốc hội thông tin về kết quả thực hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII (2007-2011), giới thiệu Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII (2011-2016), đồng thời trình bày các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thành được Chương trình này. Đây cũng chính là các giải pháp đã được đề xuất trong Nghị quyết của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII.

Một trong những nội dung quan trọng đã được xác định trong  Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội khóa XIII là việc thông qua “Luật hoặc nghị quyết sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992”. Tại Hội nghị, các đại biểu đã được nghe đại diện của Bộ Tư pháp trình bày khái quát về tình hình tổng kết, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 từ phía Chính phủ. Tham luận của Bộ Tư pháp  đã tóm tắt những mục đích, yêu cầu tổng kết thi hành và sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992; tiến độ thực hiện việc tổng kết thi hành và sửa đổi, bổ sung Hiến pháp; nội dung tổng kết và những vấn đề lớn cần nghiên cứu đề xuất sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992. 

Trong phiên thảo luận cuối, hội nghị đã được nghe chuyên gia của Liên hợp quốc tại Việt Nam chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn của một số quốc gia trong việc xây dựng Hiến pháp, xét từ khía cạnh đảm bảo sự tham gia đông đảo, toàn diện và minh bạch của công chúng. 

Kết thúc Hội nghị, Thứ trưởng Hoàng Thế Liên một lần nữa nhấn mạnh, Chính phủ và nhân dân Việt Nam luôn trân trọng và đánh giá cao những tình cảm, sự hỗ trợ và hợp tác quý báu mà cộng đồng quốc tế đã dành cho Việt Nam trong thời gian qua, đồng thời mong muốn sẽ tiếp tục nhận được nhiều hơn nữa những chương trình, dự án trợ giúp quốc tế trong lĩnh vực pháp luật để có được nguồn lực tổng hợp giữa nội lực và nguồn lực quốc tế nhằm phát triển toàn diện cải cách pháp luật và tư pháp, góp phần để Việt Nam phát triển một cách toàn diện và vững chắc, hướng tới mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh./.   

  

MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG LỚN VỀ VIỆC TIẾP TỤC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC CẢI CÁCH TƯ PHÁP THỜI GIAN TỚI

(Bà Lê Thị Thu Ba, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chánh Văn phòng Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp TW)

Từ nay đến hết năm 2012 sẽ tập trung nghiên cứu, đề xuất việc sửa đổi, bổ sung các quy định của Hiến pháp năm 1992 có liên quan đến tổ chức và hoạt động tư pháp, làm cơ sở sửa đổi, bổ sung các luật về tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp và một số hoạt động tư pháp theo định hướng của Chiến lược cải cách tư pháp. Đồng thời tiếp tục hoàn thiện các đề án, báo cáo để trình Bộ Chính trị kết luận, triển khai thực hiện :

Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp; tổ chức lại hệ thống cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối và quy hoạch tổng thể các cơ quan tư pháp trong Công an nhân dân.

Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam; chuyển viện kiểm sát thành viện công tố, tăng cường công tố trong hoạt động điều tra.

Các đề án đổi mới tổ chức, hoạt động các cơ quan tư pháp trong Quân đội.

Phương án cụ thể hoá đề án "Đổi mới tổ chức và hoạt động của toà án, viện kiểm sát và cơ quan điều tra" theo tinh thần kết luận của Bộ Chính trị (Kết luận số 79-KL/TW, ngày 28-7-2010).

Nghiên cứu, hoàn thiện và thực hiện đề án về tăng thời hạn bổ nhiệm hoặc bổ nhiệm không thời hạn đối với các chức danh tư pháp.

VỀ CHƯƠNG TRÌNH XÂY DỰNG LUẬT, PHÁP LỆNH NHIỆM KỲ QUỐC HỘI KHÓA XIII (2011-2016)

(Ông Ngô Trung Thành, Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật, Văn phòng Quốc hội).

Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh chính thức nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII có 85 dự án luật. Tại kỳ họp thứ hai vừa rồi Quốc hội đã thông qua 5 dự án luật, như vậy còn lại 80 dự án luật. Tính hết nhiệm kỳ còn lại 4 năm với 9 kỳ họp (các năm 2011-2015 mỗi năm 2 kỳ, năm 2016 có 1 kỳ họp), trung bình mỗi kỳ Quốc hội phải thông qua 9 dự án luật. Đây là số lượng dự án luật hoàn toàn khả thi (các năm 2008-2010, mỗi kỳ Quốc hội thông qua được trung bình 9,5 dự án). Tuy vậy, không phải đơn giản mà có thể hoàn thành được Chương trình đề ra. Chính vì vậy mà trong Nghị quyết của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII đã đề ra các các giải pháp cụ thể như sau:

1. Uỷ ban thường vụ Quốc hội chủ trì phối hợp chặt chẽ với Chính phủ và các cơ quan, tổ chức hữu quan kịp thời tổ chức triển khai Chương trình; trường hợp cần điều chỉnh Chương trình thì phải theo đúng quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Không đưa vào Chương trình kỳ họp Quốc hội những dự án không bảo đảm chất lượng, không đủ hồ sơ và thời hạn Luật định.

Ủy ban thường vụ Quốc hội tổ chức Hội nghị chuyên đề để các đại biểu Quốc hội chuyên trách và các đại biểu Quốc hội quan tâm cho ý kiến về các dự án luật còn nhiều vấn đề chưa rõ và ý kiến khác nhau trước khi trình Quốc hội.

2. Chính phủ, các cơ quan, tổ chức trình dự án luật, pháp lệnh chịu trách nhiệm trước Quốc hội về việc chỉ đạo, tạo mọi điều kiện cần thiết về cán bộ, kinh phí, thời gian và các điều kiện khác cho việc soạn thảo dự án nhằm bảo đảm chất lượng, tiến độ; khắc phục triệt để tình trạng gửi hồ sơ dự án không đúng thời hạn Luật định; kịp thời ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành, bảo đảm các văn bản này có hiệu lực đồng thời với thời điểm có hiệu lực của luật, pháp lệnh.

3. Cơ quan soạn thảo thực hiện nghiêm chỉnh Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chú trọng việc tổng kết thực tiễn, xây dựng tờ trình và dự thảo, trong đó xác định rõ các chính sách của luật, pháp lệnh; tổ chức lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức hữu quan, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản để bảo đảm tính khả thi, tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản trong hệ thống pháp luật.

4. Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình chủ động phối hợp chặt chẽ, tham gia ngay từ đầu với cơ quan trình, cơ quan soạn thảo, thẩm tra, chỉnh lý dự án. Báo cáo của cơ quan thẩm tra phải thể hiện rõ chính kiến của mình và các ý kiến của các cơ quan tham gia thẩm tra đối với dự án. Cơ quan tham gia thẩm tra có trách nhiệm thẩm tra, phát biểu ý kiến bằng văn bản của Thường trực hoặc của Hội đồng dân tộc, Ủy ban đối với phần nội dung của dự án liên quan đến lĩnh vực phụ trách. Đối với những nội dung chính còn có nhiều ý kiến khác nhau, cơ quan chủ trì thẩm tra phối hợp với cơ quan trình dự án và các cơ quan, tổ chức hữu quan báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội trình Quốc hội thảo luận làm cơ sở cho việc chỉnh lý dự án.

Ủy ban pháp luật chịu trách nhiệm trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội về bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của hệ thống pháp luật; chủ trì bảo đảm kỹ thuật lập pháp của dự án luật, pháp lệnh trước khi trình Quốc hội xem xét, thông qua.

 Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội dành thời gian cần thiết để nghiên cứu, tham khảo ý kiến của các cơ quan, các chuyên gia, nhà khoa học, tổ chức thảo luận, cho ý kiến góp phần hoàn thiện dự án. Đại biểu Quốc hội không phải là thành viên Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội có thể đăng ký tham gia hoạt động thẩm tra, chỉnh lý dự án luật, pháp lệnh cùng với Hội đồng dân tộc hoặc Uỷ ban mà mình quan tâm.

5. Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao tiếp tục củng cố bộ máy giúp việc về công tác xây dựng pháp luật đủ mạnh để hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao; thu hút các chuyên gia, nhà khoa học giỏi tham gia vào quá trình soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo luật, pháp lệnh; có cơ chế tài chính phù hợp, cung cấp thông tin đầy đủ phục vụ hoạt động lập pháp của Quốc hội.

Bên cạnh các giải pháp này, để có thể thực hiện hiệu quả Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, chúng tôi xin nêu thêm một số kiến nghị sau đây:

- Sau khi được phân công, Các cơ quan, tổ chức trình dự án luật, pháp lệnh cần sớm thành lập Ban soạn thảo để triển khai tổ chức nghiên cứu, xây dựng dự án; đối với các dự án đã có Ban soạn thảo cần khẩn trương rà soát, củng cố Ban soạn thảo;

- Cơ quan trình dự án, cơ quan soạn thảo cần tăng cường phối hợp, giữ mối quan hệ thường xuyên, ngay từ đầu với Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội trong công tác xây dựng dựng pháp luật; trong trường hợp cần thiết thì có thể tham vấn ý kiến trước của các cơ quan này; mời đại diện Thường trực Hội đồng dân tộc, Thường trực Ủy ban nên tham gia đầy đủ vào các họp của Ban soạn thảo dự án luật, pháp lệnh để sớm trao đổi, thống nhất các nội dung cơ bản của dự án, tạo thuận lợi, nâng cao chất lượng thẩm tra.

- Các cuộc họp thẩm tra của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội càn danh nhiều thời gian hơn để tập trung thảo luận kỹ về các nội dung cơ bản, các điều, khoản của dự thảo luật, pháp lệnh cả về nội dung và kỹ thuật văn bản. Tại các phiên họp thẩm tra, trước khi thảo luận, Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội cần dành thời gian để nghe cơ quan soạn thảo thuyết trình sâu về dự án; đồng thời nghe quan điểm của đại diện đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của dự án, các nhóm lợi ích có quyền và lợi ích liên quan đến dự án. Báo cáo thẩm tra trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Quốc hội phải nêu rõ chính kiến, đánh giá của Hội đồng, Uỷ ban.

- Đối với các dự án luật sửa đổi, bổ sung một số điều hoặc dự án luật đơn giản, ít phức tạp nên trình để xem xét thông qua tại một kỳ họp. Để thực hiện được việc này, các cơ quan được phân công trình, soạn thảo cần sớm chuẩn bị, trình Ủy ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến, phối hợp với cơ quan thẩm tra chỉnh lý hoàn thiện để vào đầu kỳ họp trình Quốc hội thảo luận, cho ý kiến và đến cuối kỳ họp thì thông qua;

- Đối với các dự án luật khác thì trình Quốc hội xem xét thông qua tại hai kỳ họp; tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội thảo luận, cho ý kiến về dự án luật theo hướng bố trí thời gian thỏa đáng để tổ chức thảo luận tại hội trường, tập trung thảo luận, cho ý kiến về các nội dung cơ bản, vấn đề lớn của Dự án luật. Thực hiện quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật là Ủy ban thường vụ Quốc hội trình Quốc hội biểu quyết những vấn đề lớn, quan trọng của dự án luật làm cơ sở cho việc tiếp thu, chỉnh lý trong thời gian giữa hai kỳ họp.

- Tiếp tục cải tiến quy trình tiếp thu, chỉnh lý và hoàn thiện các dự án luật trước khi trình Quốc hội thông qua; tăng cường trách nhiệm của Ủy ban pháp luật trong việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật ở giai đoạn này.

MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU TỔNG KẾT THI HÀNH VÀ SỬA ĐỔI, BỔ SUNG HIẾN PHÁP NĂM 1992 (Ông Hoàng Thế Liên, Thứ trưởng Bộ Tư pháp)

Việc tổ chức tổng kết thi hành và nghiên cứu sửa đổi Hiến pháp năm 1992 phải đáp ứng các yêu cầu sau đây:

Phải bám sát các định hướng, yêu cầu, tiến độ được xác định tại Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 12 tháng 7 năm 2011 của Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về việc triển khai thực hiện chủ trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992; Nghị quyết số 06/2011/QH13 ngày 06 tháng 8 năm 2011 của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 và thành lập Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; Kế hoạch số 05/KH-UBDTSĐHP ngày 23 tháng 8 năm 2011 về tổng kết việc thi hành Hiến pháp 1992 của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp.

Phải được coi là nhiệm vụ trọng tâm cần phải được ưu tiên và tập trung chỉ đạo của Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Phải đảm bảo có sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý và nhân dân.

Đặng Hoàng Oanh, Vụ Hợp tác Quốc tế - Bộ Tư pháp


Cục Công nghệ thông tin