Bộ luật Dân sự năm 2005 có quy định về uỷ quyền lại nhưng chỉ là uỷ quyền lại cho cá nhân. Hướng tới sửa đổi, bổ sung Bộ luật này, một số ý kiến cho rằng nên tính toán để có thể xây dựng chế định uỷ quyền lại cho pháp nhân. Tuy nhiên Mới đây, trong buổi toạ đàm, góp ý Dự thảo 1.6 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLDS 2005 do Bộ Tư pháp tổ chức với sự phối hợp của Dự án Jica, Cố vấn trưởng Dự án Nishioka và các chuyên gia dài hạn đã cho ý kiến về vấn đề này.
Theo Điều 583 BLDS 2005, bên được uỷ quyền chỉ được uỷ quyền lại cho người thứ ba, nếu được bên uỷ quyền đồng ý hoặc pháp luật có quy định. Việc uỷ quyền lại không được vượt quá phạm vi uỷ quyền ban đầu. Không những thế, hình thức hợp đồng uỷ quyền lại cũng phải phù hợp với hình thức hợp đồng uỷ quyền ban đầu.
Bên cạnh quan hệ dân sự, còn có một số ủy quyền được điều chỉnh cùng với hệ thống pháp luật hành chính. Cụ thể, Nghị định số 58/2001/NĐ-CP ngày 24/8/2001 của Chính phủ về quản lý và sử dụng con dấu và điểm 2.2 Mục III Phần C Thông tư liên tịch số 07/2002/TT-LT ngày 6/5/2002 của liên bộ Công an - Ban tổ chức cán bộ Chính phủ qui định: “Con dấu chỉ được đóng lên các văn bản, giấy tờ sau khi các văn bản, giấy tờ đó đã có chữ ký của cấp có thẩm quyền gồm: cấp trưởng, cấp phó hoặc cấp dưới trực tiếp được uỷ quyền của cơ quan, tổ chức đó; không được đóng dấu vào văn bản, giấy tờ không có nội dung, đóng dấu trước chữ ký”. Hay theo khoản 1, khoản 3 Điều 10 Nghị định số 110/2004/NĐ-CP ngày 8/4/2004 của Chính phủ về công tác văn thư, ở cơ quan, tổ chức làm việc theo chế độ thủ trưởng, người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ký tất cả các văn bản của cơ quan, tổ chức có thể giao cho cấp phó của mình ký thay (KT) các văn bản thuộc lĩnh vực được phân công phụ trách. Ngoài ra, “trong các trường hợp đặc biệt, người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thể uỷ quyền cho một cán bộ phụ trách dưới quyền mình một cấp ký thừa uỷ quyền (TUQ) một số văn bản mà mình phải ký. Việc giao ký thừa uỷ quyền phải được qui định bằng văn bản và giới hạn trong một thời gian nhất định. Người được uỷ quyền không được uỷ quyền cho người khác ký”.
Mặc dù đã có một số quy định chung như trên nhưng trong quá trình triển khai gặp khá nhiều vướng mắc. Chẳng hạn, việc đồng ý của bên ủy quyền có nhất thiết phải bằng văn bản không, việc đồng ý trên có phải thể hiện trong ủy quyền hay có thể thể hiện dưới hình thức khác, thế nào thì được hiểu là bên ủy quyền đã đồng ý cho bên được ủy quyền ủy quyền cho bên thứ 3… Thậm chí, một nhân viên làm việc cho 1 công ty chuyên về giao nhận cho biết, thực tế việc ủy quyền cho bên thứ 3, 4 mà chẳng có bên ủy quyền ban đầu đồng ý là rất nhiều và vẫn đang được thực tế chấp nhận bởi hầu hết các công ty hoạt động trong lĩnh vực này. Và có thể coi đó là 1 tập quán thương mại hay không?
Vì vậy, đã có dự kiến sửa đổi, bổ sung về chế định uỷ quyền lại. việc uỷ quyền lại cho cá nhân thì đơn giản và dễ dàng hơn nhưng uỷ quyền lại trong trường hợp người được uỷ quyền là tổ chức lại rất cần được cân nhắc kỹ lưỡng. Một số ý kiến cho rằng, nên có quy định cho phép tổ chức được uỷ quyền đương nhiên uỷ quyền lại cho người không phải là thành viên của tổ chức. Tuy nhiên, trong buổi toạ đàm, góp ý Dự thảo 1.6 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLDS 2005 do Bộ Tư pháp tổ chức ngày hôm qua (6/7) với sự phối hợp của Dự án Jica, Cố vấn trưởng Dự án Nishioka và các chuyên gia dài hạn cùng nhấn mạnh, trong bất kỳ trường hợp nào, việc uỷ quyền lại cho cá nhân hay cho pháp nhân theo quy định của BLDS Nhật Bản đều phải được sự cho phép của người uỷ quyền.
Cẩm Vân