Phỏng vấn trực tiếp là cần thiết
Hai phương án giải quyết việc kết hôn có yếu tố nước ngoài tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam theo Dự thảo Nghị định nói trên, thứ nhất là phỏng vấn trực tiếp hai bên nam, nữ tại cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật về hộ tịch để kiểm tra, làm rõ về nhân thân, sự tự nguyện kết hôn, mục đích kết hôn và mức độ hiểu biết nhau của hai bên nam, nữ.
Trường hợp có nghi vấn hoặc có khiếu nại, tố cáo việc kết hôn thông qua môi giới nhằm mục đích kiếm lời, kết hôn giả tạo, lợi dụng việc kết hôn để mua bán người, kết hôn vì mục địch trục lợi khác hoặc xét thấy có vấn đề cần làm rõ về nhân thân của hai bên nam nữ hoặc giấy tờ trong hồ sơ đăng ký kết hôn, cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn phải xác minh, làm rõ
Trong trường hợp đăng ký kết hôn tại Việt Nam, nếu thấy hai bên nam, nữ kết hôn chưa hiểu biết về hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh cá nhân của nhau; không hiểu biết về ngôn ngữ, phong tục, tập quán, văn hóa, pháp luật về hôn nhân gia đình của mỗi nước thì cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn yêu cầu hai bên đến Trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài để tư vấn, hỗ trợ
Phương án 2, trong trường hợp đăng ký kết hôn tại Việt Nam, nếu thấy công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài thuộc một trong các trường hợp sau đây thì cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn yêu cầu hai bên đến Trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài để được tư vấn, hỗ trợ: Hai bên chênh lệch nhau từ 20 tuổi trở lên; Người nước ngoài kết hôn lần thứ ba hoặc đã ly hôn với vợ hoặc chồng là công dân Việt Nam; Hai bên chưa hiểu biết về hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh cá nhân của nhau; không hiểu biết về ngôn ngữ, phong tục, tập quán, văn hóa, pháp luật về hôn nhân và gia đình của mỗi nước.
Chỉ tư vấn khi có nghi ngờ
Ông Nguyễn Công Khanh, Cục trưởng Cục hộ tịch, quốc tịch, chứng thực cho rằng việc duy trì phỏng vấn kết hôn và tư vấn, hỗ trợ về hôn nhân gia đình vẫn là hết sức cần thiết, các quy định trước đây và nay là Nghị định số 24/2013/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật HNGĐ về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài vẫn có quy định này. Do đó, cần phải nhấn mạnh vai trò, tầm quan trọng của phỏng vấn. Tuy nhiên, theo ông Khanh, hiện nay các trung tâm tư vấn của Hội liên hiệp phụ nữ đang xác tiến rất tích cực do đó cần có quy định chuyển tiếp theo hướng những trung tâm đang hoạt động theo Nghị định số 24/2013/NĐ-CP vẫn duy trì để có chỗ thực hiện việc tư vấn, hỗ trợ.
Còn đại diện Vụ Pháp luật quốc tế (Bộ Tư pháp) phân tích: việc bắt buộc phải tư vấn, hỗ trợ trước khi kết hôn được coi là “rào cản kỹ thuật” khi công dân VN kết hôn với người nước ngoài. Tuy nhiên, phải giải thích vì sao chênh lệch 20 tuổi phải đến Trung tâm tư vấn được kết hôn để phù hợp với quy định về quyền con người, quyền công dân đã được quy định trong Hiến pháp. Việc tư vấn hỗ trợ là quy trình chứ không phải điều kiện để từ chối đăng ký kết hôn.
Cũng có những ý kiến đề nghị cần cân nhắc kỹ những trường hợp cần phải tư vấn hỗ trợ, ví dụ như vì sao cách nhau 20 tuổi lại cần phải tư vấn, hay những người đã từng nhiều lần ly hôn không phải vì họ có “vấn đề”…
Phát biểu kết luận cuộc họp, Bộ trưởng Hà Hùng Cường nhấn mạnh, dự thảo nghị định phải quy định rõ tất cả các trường hợp kết hôn có yếu tố nước ngoài đều phải qua phỏng vấn và đây là thủ tục bắt buộc. Tuy nhiên, Bộ trưởng lưu ý cần bổ sung quy định người phiên dịch phỏng vấn là do cơ quan phỏng vấn mời, không thể phiên dịch do đương sự tự mang đến rồi dịch làm sai lệch nội dung. Thời gian qua nhiều địa phương đã phản ánh vấn đề này và nếu không có quy định về người phiên dịch sẽ rất nguy hiểm.
Riêng với các trường hợp cần tư vấn, hỗ trợ, Bộ trưởng cho rằng chỉ nên thực hiện đối với các trường hợp có nghi ngờ.
Chỉ còn hơn 3 tháng Luật Hôn nhân gia đình sửa đổi sẽ có hiệu lực, do đó Bộ trưởng yêu cầu dự thảo Nghị định phải bám sát tinh thần của Luật, đồng bộ với pháp luật về hộ tịch, cần đẩy nhanh tiến độ để trình Chính phủ. Vì Luật HNGĐ tác động đến đời sống hàng ngày của từng người dân, do đó cần có những quy định sát thực tiễn, cố gắng các văn bản hướng dẫn có hiệu lực vào thời điểm Luật có hiệu lực.
Thu Hằng
Về vấn đề tư vấn hỗ trợ kết hôn có yếu tố nước ngoài đa số thành viên tổ biên tập và chuyên gia cho rằng không nên có sự phân biệt đối xử trong quy định về tư vấn, hỗ trợ để tạo điều kiện cho người dân tiếp cận, thực hiện được quyền của mình. Việc tư vấn, hỗ trợ trong kết hôn có yếu tố nước ngoài chỉ nên với những trường hợp chưa thực sự hiểu biết về hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh cá nhân của nhau; không hiểu biết về ngôn ngữ, phong tục, tập quán, văn hóa, pháp luật về hôn nhân gia đình của nước người kết hôn với mình.
Từ chối đăng ký kết hôn
1. Việc đăng ký kết hôn bị từ chối nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Một hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật Việt Nam;
b) Bên công dân nước ngoài không đủ điều kiện kết hôn theo pháp luật của nước mà người đó là công dân hoặc nước mà người đó thường trú đối với người không quốc tịch;
c) Việc kết hôn không do nam, nữ tự nguyện quyết định;
d) Có sự lừa dối, cưỡng ép kết hôn;
đ) Một hoặc cả hai bên kết hôn là người đang có vợ, đang có chồng;
e) Một hoặc cả hai bên kết hôn là người mất năng lực hành vi dân sự;
g) Các bên kết hôn là những người cùng dòng máu về trực hệ hoặc có họ trong phạm vi ba đời;
h) Các bên kết hôn đang hoặc đã từng là cha, mẹ nuôi và con nuôi, bố chồng và con dâu, mẹ vợ và con rể, bố dượng và con riêng của vợ, mẹ kế và con riêng của chồng;
i) Các bên kết hôn cùng giới tính (nam kết hôn với nam, nữ kết hôn với nữ).
(Trích Dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình)