Rà soát pháp luật về quyền tiếp cận giáo dục của trẻ em người dân tộc thiểu số và người khuyết tật

11/03/2022
Rà soát pháp luật về quyền tiếp cận giáo dục của trẻ em người dân tộc thiểu số và người khuyết tật
Sáng nay – 11/3, Bộ Tư pháp Việt Nam đã phối hợp với Phái đoàn Liên minh Châu Âu tại Việt Nam và Chương trình phát triển Liên hợp quốc UNPD tổ chức Hội thảo với hình thức trực tuyến và trực tiếp. Dự Hội thảo có ông Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, bà Diana Torres, Trợ lý Đại diện thường trú Trưởng phòng quản trị và Tham gia UNDP, đồng chí Trần Văn Đạt, Quyền Vụ trưởng Vụ Pháp chế Bộ Giáo dục và đào tạo, đại diện một số đơn vị, tổ chức có liên quan.
Thúc đẩy hơn nữa quyền tiếp cận giáo dục của trẻ em người dân tộc thiểu số, miền núi và người khuyết tật
Phát biểu khai mạc Hội nghị, ông Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) cho biết, trong những năm qua cùng phát triển kinh tế, Chính phủ luôn quan tâm thúc đẩy, đầu tư nâng cao hiệu quả và khuyến khích triển khai chương trình, giải pháp nhằm thúc đẩy quyền tiếp cận giáo dục của trẻ em người dân tộc thiểu số và miền núi quyền tiếp cận giáo dục nghề nghiệp của người khuyết tật (sau đây gọi tắt là nhóm người yếu thế dễ bị tổn thương). Cho đến nay, hệ thống pháp luật đã dần được hoàn thiện trên nền tảng của Hiến pháp 2013. Tuy nhiên cùng với quá trình hội nhập, nhiều thách thức trong quá trình triển khai sâu rộng các hoạt động phát triển kinh tế cũng như cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, đòi hỏi các cơ quan nhà nước phải có giải pháp nhằm thúc đẩy hơn nữa quyền tiếp cận giáo dục của nhóm người yếu thế dễ bị tổn thương.
 
 
Ông Hồ Quang Huy hy vọng sẽ nhận được nhiều ý kiến đóng góp nhằm hoàn thiện Báo cáo rà soát, đánh giá chính sách pháp luật có liên quan đến các đối tượng này. Trên cơ sở báo cáo này Cục Kiểm tra văn bản QPPL sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các tổ chức quốc tế, chuyên gia trong nước, hoàn thiện nội dung Báo cáo trình cấp có thẩm quyền xem xét để tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật trong lĩnh vực này.
Nhắc lại Dự án tăng cường pháp luật và tư pháp Việt Nam – Dự án EUJULE có sự tham gia của UNDP và UNICEF với tư cách là cơ quan triển khai dự án. Dự án được thiết kế nhằm tăng cường nguyên tắc pháp quyền thông qua việc xây dựng một hệ thống tư pháp đáng tin cậy và dễ tiếp cận, bà Diana Torres cho biết Cục Kiểm tra văn bản QPPL là một trong những đối tác quan trọng trong việc triển khai các nội dung của Dự án EU JULE về nội dung nêu trên.
 
 
Bà cũng cho biết thêm, quyền tiếp cận giáo dục của trẻ em được quy định tại Công ước về quyền trẻ em và quyền tiếp cận giáo dục nghề nghiệp của người khuyết tật được quy định trong Công ước về quyền của người khuyết tật. Đây là 2 Công ước mà Việt Nam là thành viên, thông qua những nỗ lực to lớn trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước, quyền tiếp cận giáo dục của những nhóm yếu thế nêu trên đã được quy định trong nhiều văn bản pháp luật từ Luật đến các văn bản dưới luật. Tuy nhiên, vẫn còn những tồn tại và thách thức trong việc bảo đảm quyền này do các tồn tại trong văn bản pháp luật, chính sách chung và trong việc triển khai thi hành pháp luật. Với Hội nghị này, bà mong muốn nhận được nhiều khuyến nghị để hoàn thiện pháp luật và chính sách nhằm đảm bảo quyền tiếp cận giáo dục đối với nhóm người yếu thế dễ bị tổn thương.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật liên quan đến quyền tiếp cận giáo dục của nhóm người yếu thế dễ bị tổn thương
Đại diện nhóm nghiên cứu trình bày báo cáo, TS Trần Văn Đạt cho biết: Trong những năm qua, việc ghi nhận và thực hiện quyền tiếp cận giáo dục của trẻ em người dân tộc thiểu số và miền núi, quyền tiếp cận giáo dục nghề nghiệp của người khuyết tật đã đạt được nhiều kết quả. Hệ thống pháp luật ghi nhận quyền tiếp cận giáo dục của trẻ em người dân tộc thiểu số và miền núi, quyền tiếp cận giáo dục nghề nghiệp của người khuyết tật hiện đã được xây dựng cơ bản.
 
 
Tuy nhiên, trong bối cảnh kỷ nguyên số, khi cơ hội làm việc truyền thống dần mất đi, cơ hội học tập, việc làm ngày càng trở nên hạn hẹp đối với trẻ em người dân tộc thiểu số, người khuyết tật, việc đảm bảo quyền tiếp cận giáo dục của trẻ em người dân tộc thiểu số và miền núi, quyền tiếp cận giáo dục nghề nghiệp của người khuyết tật còn đối diện với nhiều khó khăn, thách thức, các chính sách đảm bảo quyền lợi cho các đối tượng trên còn tồn tại những bất cập, hạn chế, chưa theo kịp sự phát triển của tình hình phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, yêu cầu tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật liên quan đến quyền tiếp cận giáo dục của trẻ em người dân tộc thiểu số và miền núi, quyền tiếp cận giáo dục nghề nghiệp của người khuyết tật là hết sức cần thiết.
Qua rà soát, riêng các văn bản liên quan đến quyền tiếp cận giáo dục của trẻ em người dân tộc thiểu số và miền núi có khoảng 50 văn bản từ Luật đến Quyết định của Bộ trưởng. Hệ thống chính sách phát triển giáo dục nói chung và chính sách phát luật đảm bảo quyền tiếp cận giáo dục của trẻ em người dân tộc thiểu số và miền núi đã được ban hành khá đầy đủ, bao gồm: chính sách ưu tiên tuyển sinh; miễn giảm học phí; trợ cấp xã hội; học bổng hỗ trợ học tập; chính sách phát triển giáo dục đối với các dân tộc rất ít người; chính sách tăng cường tiếng Việt cho trẻ em, bảo tồn văn hóa của người dân tộc thiểu số, chế độ đối với giáo viên, cán bộ quản lý…
Trong tổ chức thực hiện, thời gian qua, Nhà nước đã hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ bản và trang thiết bị cho các trường phổ thông dân tộc nội trú với tổng mức vốn gần 642 tỷ đồng; hỗ trợ chi phí học tập cho hàng trăm nghìn lượt trẻ em dân tộc thiểu số; tăng cường tiếng Việt cho trẻ em người dân tộc thiểu số.
Tiếp tục ưu tiên bố trí giáo viên, cơ sở vật chất, thiết bị và ngân sách đối với các vùng dân tộc thiểu số và miền núi
Bên cạnh kết quả đạt được, hệ thống chính sách giáo dục cho trẻ em dân tộc thiểu số và miền núi còn tồn tại một số hạn chế như chính sách hỗ trợ cho học sinh dân tộc thiểu số thuộc hộ nghèo, cận nghèo còn thấp, chưa phù hợp thực tiễn; hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, chính sách liên quan đến giáo dục và đào tạo của trẻ em dân tộc thiểu số và miền núi chưa được rà soát, xử lý kịp thời, triệt để cho phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội; chưa có quy định phù hợp trong trường hợp học sinh phải “tạm dừng đến trường học nhưng không dừng học” do thiên tai, dịch bệnh… Việc thực thi và giám sát thực thi chính sách liên quan đến quyền tiếp cận giáo dục của trẻ em người dân tộc thiểu số và miền núi chưa thực sự hiệu quả. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các chính sách giáo dục và đào tạo vùng dân tộc thiểu số, miền núi ở một số địa phương còn hạn chế, sự quan tâm chưa thỏa đáng.
 
 
Liên quan đến quyền tiếp cận giáo dục nghề nghiệp của người khuyết tật, nhóm nghiên cứu đã rà soát 46 văn bản quy phạm pháp luật, cho thấy có nhiều chính sách đã được ban hành khá đầy đủ, toàn diện: Chính sách về ưu tiên nhập học, tuyển sinh; miễn giảm một số môn học hoặc hoạt động giáo dục trong chương trình giáo dục và việc đánh giá kết quả giáo dục; chính sách hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật…
Tuy nhiên, một số văn bản hướng dẫn triển khai Luật Giáo dục nghề nghiệp mới ra đời đã bị sửa đổi, bổ sung và thay thế làm cho công tác phổ biến và thực hiện còn nhiều lúng túng. Những chính sách liên quan đến dạy nghề cho người khuyết tật vẫn còn một số điểm chung chung dẫn đến khó triển khai trong thực tiễn. Cơ chế giám sát thực thi các chính sách liên quan đến quyền tiếp cận giáo dục nghề nghiệp của người khuyết tật chưa phát huy được vai trò và hiệu quả trong quản lý nhà nước đối với công tác này. Việc phân bố cơ sở giáo dục nghề nghiệp nói chung còn chưa đồng đều…
Để quyền tiếp cận giáo dục của trẻ em người dân tộc thiểu số và miền núi, quyền tiếp cận giáo dục nghề nghiệp của người khuyết tật, cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị định số 61/2006/NĐ-CP về chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục công tác ở trường chuyên biệt, ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Quan tâm, chú trọng hơn nữa việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của người dân tộc thiểu số trong cơ sở giáo dục. Chính phủ cần tiếp tục ưu tiên bố trí giáo viên, cơ sở vật chất, thiết bị và ngân sách đối với các vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
 
Bên cạnh đó, rà soát, đánh giá quá trình triển khai thực hiện Luật Người khuyết tật năm 2010; sửa đổi, bổ sung các quy định trong Luật Giáo dục nghề nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh trong hoạt động giáo dục nghề nghiệp theo hướng quy định điều kiện thành lập, cho phép thành lập cơ sở giáo dục nghề nghiệp cho người khuyết tật được hưởng các chính sách ưu đãi, thu hút đầu tư để đảm bảo thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này. Tăng cường giám sát thực thi luật pháp, chính sách và tăng cường sự tham gia của người khuyết tật trong ban hành các quyết định và hoạt động giám sát.
 
Thực hiện – Pv An Như