Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 02 Đề án cùng thời điểm hướng tới đổi mới mạnh mẽ công tác PBGDPL

17/08/2022
Thực hiện nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 20/5/2021 của Chính phủ về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng và Quyết định số 1521/QĐ-TTg ngày 6/10/2020 về Kế hoạch thực hiện Kết luận số 80-KL/TW của Ban Bí thư tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân, Bộ Tư pháp đã chủ trì nghiên cứu xây dựng, trình 02 Đề án “Tăng cường năng lực tiếp cận pháp luật của người dân” và “Thí điểm đổi mới hoạt động đánh giá hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật”.
Trên cơ sở đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 977/QĐ-TTg ngày 11/8/2022 phê duyệt Đề án“Tăng cường năng lực tiếp cận pháp luật của người dân” (Đề án 977) và Quyết định số 979/QĐ-TTg ngày 12/8/2022 phê duyệt Đề án “Thí điểm đổi mới hoạt động đánh giá hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật” (Đề án 979). Các Đề án được ban hành và có hiệu lực gần như cùng một thời điểm (kể từ ngày ký) có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhằm tăng cường năng lực tiếp cận pháp luật cho người dân, đồng thời đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác PBGDPL với phương châm tìm hiểu, tuân theo pháp luật vừa là quyền, vừa là trách nhiệm chủ động của mỗi người dân trong xã hội. Từ đó, hiệu quả công tác PBGDPL cũng phải được xác định dựa trên sự đo lường mức độ nhận thức, hiểu biết và ý thức tuân theo pháp luật của cá nhân, tổ chức.  
1. Nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu theo Đề án 977
Với mục tiêu đề ra, Đề án xác định 05 nhóm nhiệm vụ, giải pháp lớn (gồm 02 nhiệm vụ, giải pháp chung và 03 nhóm nhiệm vụ, giải pháp gắn với từng nhóm chủ thể cụ thể) cần được triển khai thực hiện đến năm 2030. Trước hết là thực hiện rà soát, nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện chính sách, thể chế bảo đảm, hỗ trợ người dân tiếp cận pháp luật. Đặc biệt là thể chế về phổ biến, giáo dục pháp luật, hòa giải ở cơ sở, chuẩn tiếp cận pháp luật, tiếp cận thông tin, trợ giúp pháp lý, bổ trợ tư pháp. Việc hoàn thiện chính sách, thể chế được thực hiện theo hướng Nhà nước tạo dựng các điều kiện cần thiết để người dân chủ động tìm hiểu, sử dụng pháp luật được thuận tiện, nhanh chóng, kịp thời, đầy đủ. Qua đó tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, thống nhất, hiệu quả cho việc triển khai các hoạt động nhằm nâng cao khả năng tiếp cận pháp luật cũng như nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật của người dân.
Cùng với việc hoàn thiện chính sách, thể chế, còn có nhóm nhiệm vụ, giải pháp chung về đầu tư, hỗ trợ nguồn lực, công nghệ thông tin bảo đảm cho các hoạt động phục vụ yêu cầu tiếp cận pháp luật của người dân của các cơ quan, tổ chức. Bao gồm bảo đảm kinh phí, cơ sở vật chất, các phương tiện, thiết bị phục vụ các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ, các chương trình, đề án được giao; bố trí kinh phí cho các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức hành nghề trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, tổ chức đại diện của đối tượng đặc thù để phát huy vai trò hỗ trợ, nâng cao năng lực tiếp cận pháp luật của người dân; phát huy trách nhiệm xã hội, sự chủ động của các tổ chức hành nghề trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp để triển khai hiệu quả hoạt động hỗ trợ người dân tiếp cận pháp luật; huy động nguồn lực xã hội hỗ trợ công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; bố trí nguồn lực, đầu tư cho các chương trình, đề án, nhiệm vụ về ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong lĩnh vực phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm bảo đảm việc cung cấp thông tin pháp luật cho người dân được đầy đủ, kịp thời, nhanh chóng, thuận lợi.
Với từng nhóm chủ thể cụ thể, có 18 nhóm nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm.
Đối với người dân: Để nâng cao nhận thức, trách nhiệm, hình thành thói quen tìm hiểu, sử dụng và tuân theo pháp luật, có 05 nhóm nhiệm vụ, giải pháp được triển khai, bao gồm tăng cường công tác thông tin, truyền thông về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của pháp luật, sự cần thiết của việc chủ động nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật của người dân, xây dựng, triển khai các mô hình, hình thức tiếp cận pháp luật phù hợp với từng đối tượng, địa bàn thuộc phạm vi quản lý; cung cấp, hướng dẫn các kiến thức, kỹ năng tìm hiểu, khai thác pháp luật bằng các hình thức phù hợp; củng cố, nâng cao hiệu quả đường dây nóng và các kênh tiếp nhận, trả lời kiến nghị, phản ánh, giải đáp, tư vấn, hỗ trợ các vấn đề liên quan đến việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân.
Đối với đối tượng đặc thù, trẻ em, người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo: Xác định đây là những nhóm còn hạn chế về nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật và cần được quan tâm nhiều hơn nữa trong việc nâng cao khả năng tiếp cận pháp luật, Đề án đề ra 03 nhóm nhiệm vụ, giải pháp. Đó là kiện toàn đội ngũ nhân lực có kiến thức pháp luật, kỹ năng hỗ trợ thông tin pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, tư vấn, trợ giúp pháp lý; xây dựng, triển khai các chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật, tư vấn, trợ giúp pháp lý phù hợp với từng đối tượng; nâng cao năng lực, hỗ trợ kinh phí cho các tổ chức đại diện của đối tượng đặc thù thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ thông tin pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, tư vấn, trợ giúp pháp lý; nghiên cứu, triển khai các giải pháp mới nhằm nâng cao khả năng tiếp cận pháp luật, hỗ trợ thông tin pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp với từng đối tượng.
Đối với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, có 06 nhóm nhiệm vụ, giải pháp và tập trung nâng cao nhận thức, thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ được giao của các cơ quan có trách nhiệm thi hành pháp luật, tăng cường hoạt động tự giám sát, tự kiểm tra quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Rà soát, bảo đảm điều kiện, hướng dẫn, hỗ trợ người dân các thông tin pháp luật, thực hiện quyền, bảo vệ lợi ích hợp pháp trong quá trình tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị, nhất là trách nhiệm giải trình và công khai, minh bạch các nội dung trả lời phản ánh, kiến nghị của người dân; tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính; trao đổi, đối thoại; thực hiện dân chủ ở cơ sở; đánh giá chuẩn tiếp cận pháp luật. Củng cố, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của các cơ quan, tổ chức trong bảo đảm, hỗ trợ việc tiếp cận pháp luật, trọng tâm là xây dựng, triển khai chương trình bồi dưỡng, tập huấn theo định kỳ, chú trọng đội ngũ báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật người dân tộc thiểu số, người có uy tín tại cộng đồng. Thực hiện đầy đủ trách nhiệm cung cấp thông tin, tăng cường hiệu quả cung cấp thông tin theo yêu cầu. Xây dựng, ban hành Thông cáo báo chí về văn bản quy phạm pháp luật chủ trì ban hành. Xây dựng cơ chế thu hút luật sư, luật gia, người có kiến thức pháp luật, người có uy tín tham gia hòa giải ở cơ sở; xây dựng, nhân rộng mô hình điển hình về hòa giải ở cơ sở...
Đối với các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, xã hội nghề nghệp, tổ chức hành nghề trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp: Đề án đã tạo ra cơ chế có ý nghĩa quan trọng nhằm huy động sự vào cuộc, phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức này trong việc hỗ trợ thông tin pháp luật, tư vấn pháp luật cho người dân. Thể hiện nhất quán, xuyên suốt quan điểm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội đã đề ra trong Chỉ thị số 32-CT/TW và Kết luận số 80-KL/TW, Đề án xác định 04 nhóm nhiệm vụ và giải pháp như mở rộng mạng lưới các cơ quan, tổ chức hỗ trợ thông tin pháp luật, tư vấn pháp luật và tăng cường phối hợp với các cơ quan nhà nước trong hỗ trợ, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân; tăng cường giám sát, phản biện xã hội trong thực hiện pháp luật về quyền con người, quyền công dân và trách nhiệm giải trình của các cơ quan, tổ chức trong bảo đảm, hỗ trợ người dân tiếp cận pháp luật; tăng cường vận động người dân và thành viên tự giác, chủ động tìm hiểu, chấp hành pháp luật; tư vấn pháp luật miễn phí, hỗ trợ người dân giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc về pháp luật; xây dựng, triển khai các sáng kiến, mô hình hiệu quả trong hỗ trợ tiếp cận pháp luật và nâng cao năng lực tiếp cận pháp luật của người dân; củng cố, nâng cao năng lực cho đội ngũ những người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, người được mời tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật và bố trí kinh phí cho các tổ chức này để phát huy vai trò hỗ trợ, nâng cao năng lực tiếp cận pháp luật của người dân.
Để triển khai thực hiện Đề án, Thủ tướng Chính phủ đã giao trách nhiệm, nhiệm vụ hoặc đề nghị sự tham gia thực hiện cho các cơ quan, tổ chức có liên quan, trong đó Bộ Tư pháp được giao chủ trì, hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, báo cáo kết quả của Đề án trong phạm vi cả nước. Bên cạnh đó, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức hành nghề trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp căn cứ nhiệm vụ và giải pháp tại Đề án để tổ chức thực hiện phù hợp với chức năng của mình.
2. Nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu theo Đề án 979
Hoạt động đánh giá hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL) đang thực hiện theo Thông tư số 03/2018/TT-BTP ngày 10/3/2018 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định Bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Tuy nhiên, trước các yêu cầu đổi mới công tác PBGDPL thông qua việc ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, chuyển đổi số; gắn kết chặt chẽ trong toàn bộ quá trình hoạch định chính sách, xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật; tiếp tục hướng mạnh về cơ sở, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, tăng cường tiếp cận thông tin pháp luật, dân chủ ở cơ sở... thì việc đánh giá hiệu quả công tác PBGDPL cần phải được tiếp cận theo một cơ chế mới, có tính khoa học, khách quan, toàn diện, chặt chẽ, khả thi, thực chất, được xác định cơ bản như sau:
Thứ nhất, xây dựng Khung tiêu chí đánh giá thí điểm hiệu quả công tác PBGDPL không chỉ đánh giá quá trình quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức PBGDPL, mà còn đánh giá sự tác động đến nhận thức, hiểu biết pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật của đối tượng được PBGDPL. Theo đó, Khung tiêu chí gồm hai thành phần: Nhóm tiêu chí chung áp dụng đối với tất cả các cơ quan, tổ chức, đơn vị thực hiện công tác PBGDPL và nhóm tiêu chí riêng do các bộ, ngành, địa phương xây dựng phù hợp với mục tiêu, lĩnh vực, địa bàn, đối tượng, điều kiện của bộ, ngành, địa phương. Các tiêu chí cần cụ thể, rõ ràng hơn, phù hợp với nguyên lý “hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật phải căn cứ vào kết quả đầu ra”.
Thứ hai, quy trình, chủ thể đánh giá có sự tham gia của đối tượng thụ hưởng. Trong bối cảnh hiện nay, việc phát huy sự tham gia chủ động, tích cực của mọi người dân trong công tác PBGDPL và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật thì hoạt động đánh giá hiệu quả công tác PBGDPL cần có sự tham gia đánh giá của đối tượng thụ hưởng (người dân, tổ chức, doanh nghiệp) để bảo đảm tính khách quan, toàn diện, từ đó nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác PBGDPL. Đồng thời, công tác này còn có sự tham gia giám sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các cơ quan dân cử.
Thứ ba, tham khảo, đối chiếu, sử dụng số liệu có liên quan về công tác PBGDPL tại kết quả các bộ chỉ số như: Bộ chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính (Sipas); Bộ chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công (Papi); Chỉ số cải cách hành chính (Par Index); tiêu chí xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật...) nhằm đảm bảo tính thống nhất, tiết kiệm về thời gian và nguồn lực.
Để đưa hoạt động đánh giá hiệu quả công tác PBGDPL thực sự là công cụ thúc đẩy công tác PBGDPL trong tình hình mới, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị mà Đảng, Nhà nước đã đề ra và với những đổi mới nêu trên thì đây được xác định là một nhiệm vụ khó. Bởi vậy, để thận trọng, tránh chủ quan, trước khi áp dụng rộng rãi cần có quá trình khảo sát, nghiên cứu, thực hiện thí điểm, từng bước rút kinh nghiệm, chỉnh lý, hoàn thiện, sau đó tổng kết, đề xuất hoàn thiện thể chế đánh giá hiệu quả công tác PBGDPL. Đề án đặt ra việc thực hiện thí điểm tại 03 bộ, ngành (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ủy ban Dân tộc) và 06 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (Hà Nội, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Khánh Hòa, Đồng Nai, Sóc Trăng).
Đề án xác định rõ 05 nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sẽ được triển khai thực hiện từ nay đến năm 2026, bao gồm:
(i) Nghiên cứu, khảo sát hoạt động đánh giá hiệu quả công tác PBGDPL. Nhóm nhiệm vụ này gồm các hoạt động: Tổ chức khảo sát thực trạng việc đánh giá hiệu quả công tác PBGDPL; nghiên cứu, khảo sát kinh nghiệm các nước và ở Việt Nam trong xây dựng và tổ chức thực hiện các tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác truyền thông, thông tin PBGDPL; tổ chức tọa đàm, hội thảo, diễn đàn trao đổi về thực trạng, các giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong đánh giá hiệu quả công tác PBGDPL để tạo cơ sở xây dựng Khung tiêu chí mới đánh giá hiệu quả công tác PBGDPL.
(ii) Ban hành Khung tiêu chí đánh giá thí điểm hiệu quả công tác PBGDPL. Khung tiêu chí này phải đáp ứng những yêu cầu cơ bản như: Gồm tiêu chí chung và tiêu chí riêng, bảo đảm linh hoạt, có thể áp dụng đánh giá cho từng hoạt động PBGDPL cụ thể gắn với đối tượng, lĩnh vực, vấn đề, thời gian, không gian cụ thể; Việc đánh giá thực hiện trên cơ sở so sánh, đo lường giữa mục tiêu, yêu cầu của công tác PBGDPL, nguồn lực đầu tư với kết quả đạt được trên thực tế; Các tiêu chí, chỉ tiêu đánh giá cần bảo đảm kết hợp giữa đánh giá hiệu quả việc thực hiện quản lý nhà nước, PBGDPL của các bộ, ngành, địa phương và đánh giá sự tác động của công tác PBGDPL đối với chuyển biến về nhận thức, hành vi tuân theo pháp luật của đối tượng được PBGDPL; Kết nối với các bộ tiêu chí, chỉ số khác có nội dung liên quan nhằm bảo đảm tính thống nhất, tránh trùng lắp, lãng phí nguồn lực trong đánh giá; Đánh giá hiệu quả công tác PBGDPL thực hiện trên cơ sở tự đánh giá của cơ quan, tổ chức, đơn vị và đánh giá của đối tượng được PBGDPL.
(iii) Tổ chức thực hiện đánh giá thí điểm hiệu quả công tác PBGDPL. Bộ, ngành, địa phương được triển khai thí điểm xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch đánh giá thí điểm hiệu quả công tác PBGDPL và gửi báo cáo kết quả về Bộ Tư pháp. Bộ Tư pháp có trách nhiệm tổng hợp, đánh giá kết quả thực hiện của các bộ, ngành, địa phương làm thí điểm.
(iv) Huy động nguồn lực xã hội, ứng dụng công nghệ thông tin trong đánh giá thí điểm hiệu quả công tác PBGDPL. Để bảo đảm tính khả thi của hoạt động đánh giá hiệu quả công tác PBGDPL, bên cạnh các nhóm nhiệm vụ giải pháp về xây dựng Khung tiêu chí, tổ chức thực hiện thí điểm, Đề án đưa ra các nhóm nhiệm vụ về huy động nguồn lực xã hội hỗ trợ cho công tác này (kinh phí, cơ sở vật chất); tổ chức các hoạt động truyền thông và ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động đánh giá hiệu quả công tác PBGDPL.
(v) Tổng kết, rút kinh nghiệm, nghiên cứu đề xuất định hướng hoàn thiện thể chế về đánh giá hiệu quả công tác PBGDPL. Trên cơ sở kết quả thí điểm và tổng kết việc thực hiện Thông tư số 03/2018/TT-BTP, Bộ Tư pháp đề xuất định hướng hoàn thiện thể chế, giải pháp phù hợp về đánh giá hiệu quả công tác PBGDPL trên phạm vi cả nước.
Trong mỗi nhóm nhiệm vụ, giải pháp đã xác định cụ thể cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp, thời gian thực hiện để bảo đảm Đề án triển khai theo đúng tiến độ, hoàn thành mục tiêu đã đề ra.
Việc thực hiện các Đề án nêu trên sẽ giúp tăng cường nhận thức của các cấp lãnh đạo cơ quan, tổ chức, đơn vị đối với công tác PBGDPL, là cơ sở để đổi mới cách thức tổ chức PBGDPL, góp phần đưa công tác PBGDPL đi vào thực chất, hướng về cơ sở, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, đồng thời, giúp bộ, ngành, địa phương có giải pháp cụ thể nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác PBGDPL, đáp ứng đúng nhu cầu thông tin pháp luật của người dân, doanh nghiệp và xã hội. Bên cạnh đó, việc triển khai thực hiện các Đề án sẽ bảo đảm việc sử dụng hiệu quả nguồn lực đầu tư cho công tác PBGDPL, tạo sự chuyển biến trong nhận thức, hành vi tuân thủ, chấp hành pháp luật của người dân, góp phần ổn định an ninh trật tự, sự phát triển kinh tế - xã hội và sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam./.
Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật