I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Trang vtv.vn đưa tin: Sáng ngày 9/11, Quốc hội đã biểu quyết thông qua ba nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội năm 2012. Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội năm tới được hơn 90% đại biểu tán thành. Trong đó, mục tiêu tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng khoảng 6-6,5%, tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 13%, nhập siêu khoảng 11-12% trên tổng kim ngạch xuất khẩu, phấn đấu giảm nhập siêu xuống dưới 10% tổng kim ngạch xuất khẩu và bội chi ngân sách dưới 4,8% GDP. Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển xã hội trong năm tới khoảng 33,5% GDP. Chỉ số giá tiêu dùng tăng dưới 10%. Mục tiêu trong năm tới tạo việc làm cho khoảng 1,6 triệu lao động; giảm 2% tỷ lệ hộ nghèo 2%, riêng các huyện nghèo giảm 4%.
Với 89% đại biểu tán thành, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về Chương trình sử dụng trái phiếu Chính phủ 5 năm 2011-2015. Theo đó, tổng mức đầu tư vốn trái phiếu chính phủ trong 5 năm tới là 225.000 tỷ đồng. Ngoài 40 dự án đã được Ủy ban thường vụ Quốc hội cho phép bổ sung trong năm nay, không bổ sung mới danh mục dự án, công trình sử dụng vốn trái phiếu chính phủ trong 5 năm tới.
Cùng với các giải pháp sử dụng hiệu quả nguồn vốn đã huy động, nghị quyết cũng xác định rõ nhiệm vụ tăng cường quản lý, thanh kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc triển khai sử dụng vốn để đảm bảo tiến độ, chất lượng và hiệu quả các dự án, công trình được đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu chính phủ.
Với 82% đại biểu quốc hội tán thành, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về Chương trình mục tiêu quốc gia 5 năm (2011-2015), trong đó có 16 chương trình mục tiêu quốc gia.
2. Trang ndhmoney.vn có bài Chính phủ yêu cầu NHNN báo cáo đề án tái cơ cấu ngân hàng. Bài báo đưa tin: Tại Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 vừa được ban hành ngày 9/11, Chính phủ yêu cầu Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, hiệu quả, theo sát tín hiệu thị trường; thực hiện các biện pháp kiểm soát, ổn định tỷ giá VND/USD và lãi suất liên ngân hàng. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước phải có kế hoạch điều chỉnh giảm lãi suất huy động và cho vay phù hợp với diễn biến lạm phát; điều hành tăng trưởng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán hợp lý (khoảng 12 -13% cho cả năm 2011).
Ngân hàng Nhà nước phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan khẩn trương xây dựng đề án tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong tháng 11/2011. Đồng thời, Chính phủ giao Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ Công Thương, Ngân hàng Nhà nước có các biện pháp quyết liệt để kiểm soát thị trường vàng và ngoại tệ.
Bộ Xây dựng được giao chủ trì, phối hợp với Ngân hàng Nhà nước khẩn trương rà soát tình hình thị trường bất động sản, đề xuất giải pháp cụ thể, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước 15/11/2011.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Người lao động có bài Sửa đổi, bổ sung chức năng của nhiều bộ, ngành. Bài báo đưa tin: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ngày 9-11 đã ký Quyết định 1992/QĐ-TTg phê duyệt kế hoạch sửa đổi, bổ sung các nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ.
Theo đó, Bộ Tư pháp sẽ bổ sung chức năng, nhiệm vụ về bồi thường Nhà nước, lý lịch tư pháp, thi hành án hành chính; Bộ Công Thương sẽ bổ sung chức năng, nhiệm vụ quản lý Nhà nước về thương hiệu quốc gia...; Bộ Xây dựng sẽ bổ sung chức năng, nhiệm vụ về kiện toàn tổ chức quản lý Nhà nước về nhà ở và kinh doanh bất động sản...
2. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh đưa tin về Vụ cán bộ sở tư pháp nhận hối lộ tại Cần Thơ: Ngày 8-11, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP.Cần Thơ ký kết luận điều tra chuyển Viện kiểm sát cùng cấp đề nghị truy tố: Phạm Thanh Dũng nguyên Phó Trưởng phòng Hành chính tư pháp (Sở Tư pháp Cần Thơ) về 2 tội danh “nhận hối lộ” và “tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”; 8 bị can khác về tội "đưa hối lộ".. Bên cạnh đó, cơ quan cảnh sát điều tra đề nghị xem xét trách nhiệm theo Luật phòng chống tham nhũng đối với ông Nguyễn Thành Đông - Giám đốc, ông Trần Phước Hoàng và bà Lê Thị Hải Yến - Phó giám đốc Sở Tư pháp TP.Cần Thơ, đã để xảy ra tiêu cực, tham nhũng trong đơn vị mình quản lý trong thời gian dài mà không phát hiện và có biện pháp ngăn chặn.
Báo cũng có bài Công lý sẽ được thực thi? Bài báo phản ánh: Trên Báo CATP ra ngày 7-10-2011 đăng bài “Công lý gì kỳ?”, phản ánh việc thi hành án chậm trễ và có phần khó hiểu của Chi cục Thi hành án quận Tân Phú trong việc kê biên tài sản để thi hành án ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của vợ chồng anh Võ Văn Chương (SN 1959) và chị Nguyễn Thị Lý (SN 1978, tạm trú 54 Tây Thạnh, phường Tây Thạnh, quận Tân Phú, TPHCM).
Theo đơn khiếu nại và kêu oan của vợ chồng anh Chương gửi Báo CATPHCM, năm 2003, anh chị thuê nhà 46/2 Tây Thạnh, phường Tây Thạnh, quận Tân Phú (nay là số 54 Tây Thạnh) của bà Đặng Thị Oanh (SN 1963, ngụ 213 Tây Thạnh, phường Tây Thạnh, quận Tân Phú) với thời hạn năm năm để kinh doanh và sau đó mua lại căn nhà trên. Theo hợp đồng này thì giá trị căn nhà mà bà Oanh bán cho anh Chương là 3,2 tỷ đồng và đã nhận cọc 450 triệu đồng. Để thực hiện các phần còn lại của hợp đồng, ngày 18-6-2007 vợ chồng anh Chương tiếp tục đưa cho bà Oanh thêm 1,3 tỷ đồng; hai tuần sau đó giao tiếp 700 triệu đồng cùng 50 triệu đồng để bên bán (bà Oanh) làm giấy tờ sang tên cho bên mua như đã thỏa thuận trong hợp đồng. Như vậy tổng cộng bà Oanh đã nhận tiền bán căn nhà trên cho vợ chồng anh Chương là 2,5 tỷ đồng. Riêng số tiền còn lại 700 triệu đồng bà Oanh sẽ nhận khi bên mua nhận giấy chủ quyền nhà. Sau đó việc mua bán không suôn sẻ, bà Oanh cố tình nhờ Đặng Thị Mai Lan - cháu của bà Oanh hợp thức hóa đứng tên chủ quyền nhà.
Theo hai bản án số 56/2008/DSST (ngày 6-3-2009) của TAND quận Tân Phú cũng như bản án số 902/2009/DSPT (ngày 29-5-2009) của TAND TPHCM về việc tranh chấp hợp đồng mua bán nhà, sự việc được giải quyết như sau: Tuyên hợp đồng mua bán căn nhà 54 Tây Thạnh, phường Tây Thạnh, quận Tân Phú vô hiệu; buộc bà Oanh phải trả cho ông Chương, bà Lý 2.682.393.100 đồng; ông Chương, bà Lý giao trả lại căn nhà cho bà Oanh. Bản án có hiệu lực đã gần ba năm, nhưng vẫn chưa được thi hành. Tiền mà bà Oanh còn thiếu nợ của vợ chồng anh Chương vẫn chưa được hoàn trả, bởi việc làm tắc trách của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Phú.
Sau khi báo đăng, Viện KSND quận Tân Phú đã có văn bản kiến nghị (V/v vi phạm trong công tác thi hành án dân sự) gửi Chi cục THADS quận Tân Phú. Theo kiến nghị này bản án trên có hiệu lực pháp luật. Ngày 1-10-2009, bà Nguyễn Thị Lý có đơn yêu cầu thi hành án. Ngày 7-10-2009, Chi cục THADS quận Tân Phú nhận đơn và ra quyết định thi hành án, nhưng đến ngày 4-11-2009 mới giao quyết định thi hành án cho bà Lý và đến ngày 12-11-2009 mới giao cho bà Oanh (vi phạm vào khoản 2, điều 39 Luật thi hành án dân sự). Ngòai ra, qua kiểm tra hồ sơ thi hành án thì đến thời điểm hiện nay, Chi cục Thi hành án vẫn chưa giao quyết định thi hành án cho bà Lan, ông Sinh là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án (vi phạm khoản 1, điều 39 Luật thi hành án dân sự). Mặt khác, hồ sơ thi hành án thể hiện Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Phú đã xác minh tài sản của bà Oanh và phát hiện thấy bà Oanh có nhiều tài sản cụ thể: các căn nhà 183/18; 213; 44/20 và 207/74 đường Tây Thạnh, phường Tây Thạnh, quận Tân Phú. Bên cạnh đó tại bản án trên đã nêu rõ: bà Đặng Thị Mai Lan xác nhận căn nhà 54 Tây Thạnh là của bà Oanh, bà chỉ là người đứng tên giùm bà Oanh và ở phần quyết định của bản án đã buộc bà Lý, ông Chương phải giao trả lại căn nhà số 54 Tây Thạnh cho bà Oanh. Quá trình thi hành án, vào ngày 24-12-2009 bà Oanh đồng ý cho phát mãi căn nhà trên. Như vậy có đủ căn cứ xác định đây là tài sản của bà Oanh.
Cũng theo bản kiến nghị của Phó viện trưởng VKSND quận Tân Phú Ngô Văn Giàu, hiện nay thời hạn tự nguyện đã hết, bà Oanh còn nhiều tài sản là nhà ở đủ điều kiện thi hành án. Nhưng gần 2 năm qua, Chi cục THADS quận Tân Phú đã không tiến hành kê biên tài sản của bà Oanh để thi hành án, làm cho vụ việc kéo dài, đương sự khiếu nại nhiều nơi. Như vậy, Chi cục Thi hành án đã vi phạm vào khoản 1, điều 46 Luật thi hành án dân sự.
Do đó, VKSND quận Tân Phú kiến nghị Chi cục THADS quận Tân Phú chấm dứt và khắc phục những vi phạm nêu trên, đồng thời tiến hành ngay việc kê biên tài sản của người phải thi hành án, để thi hành dứt điểm bản án trên.
3. Báo Công lý có bài Vụ kê biên bán đấu giá tài sản ở Quảng Nam: Dấu hiệu sai phạm nghiêm trọng. Bài báo phản ánh: Ngôi nhà 191 Hùng Vương (Tp. Tam Kỳ) đã được chuyển nhượng hợp pháp, thế nhưng cơ quan Thi hành án Tp.Tam Kỳ và Công ty CP Tư vấn tài chính & gía cả Quảng Nam đã tiến hành kê biên, bán đấu giá với nhiều sai phạm nghiêm trọng.
Theo đơn khiếu nại khẩn cấp gửi nhiều nơi của vợ chồng ông Lê Công Hà và Nguyễn Thị Thu Sương trú tại 55 Phan Chu Trinh, Tp. Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, do nhu cầu nhà ở, ngày 18-11-2008, vợ chồng ông Hà mua lại ngôi nhà của ông Nguyễn Tấn Lực và bà Nguyễn Thị Tâm, tại số nhà 191 Hùng Vương, Tp. Tam Kỳ (Quảng Nam), diện tích 154m với giá gần 1 tỷ đồng. Ngày 18-11-2008, hai bên đã ra UBND phường An Mỹ làm xong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở gắn liền với nhà ở trên đất và đã được Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất thành phố Tam Kỳ yêu cầu vợ chồng ông Lê Công Hà thực hiện xong nghĩa vụ nộp lệ phí trước bạ nhà, đất về thuế để đăng ký quyền sử dụng đất và sở hữu nhà đúng theo quy định của pháp luật.
Nhưng đến ngày 26-11-2008, TAND Tp. Tam Kỳ nhận được hai đơn khởi kiện dân sự về việc vợ chồng ông Lực bà Tâm thiếu nợ bà Nguyễn Thị Châu và cũng trong ngày 26-11-2008, Thẩm phán Nguyễn Hữu Thịnh, TAND Tp. Tam Kỳ ra Quyết định số 09/2008/QĐ-BPKCTT áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời yêu cầu Phòng TN&MT Tp. Tam Kỳ không được chuyển nhượng đất, tài sản trên đất của vợ chồng ông Lực cho vợ chồng ông Hà. Theo đó ngày 26-6-2009, tại Bản án dân sự số 59/2009/DSST, TAND Tp. Tam Kỳ xét xử tranh chấp giữa người vay là vợ chồng bà Tâm, ông Lực và người cho vay là bà Châu thì không hề đề cập gì đến ngôi nhà 191 Hùng Vương, Tp. Tam Kỳ. Sau đó, Bản án phúc thẩm của TAND tỉnh Quảng Nam cũng không đề cập đến ngôi nhà này.
Thế nhưng, trước đó ngày 27-11-2008, Chi cục Trưởng Chi cục Thi hành án TP Tam Kỳ Lê Tấn Hùng đã ký Quyết định số 119/QĐ-THA cho thi hành kê biên bán đấu giá ngôi nhà 191 Hùng Vương, Tp. Tam Kỳ. Từ khi kê biên ngôi nhà, vợ chồng ông Lê Công Hà và bà Nguyễn Thị Thu Sương có đơn khiếu nại nhiều nơi.
Ngày 29-10-2009, ông Viện trưởng VKSND tỉnh Quảng Nam - Đinh Xuân Thảo đã có Công văn số 89/ĐKT gửi Chánh án TAND Tp. Tam Kỳ; Trưởng THA Tp. Tam Kỳ nêu rõ: “Sau khi xem xét đơn khiếu nại và các tài liệu liên quan thì thấy: Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông Hà và bà Nguyễn Thị Tâm không liên quan gì đến bản án tranh chấp hợp đồng vay tài sản của bà Nguyễn Thị Tâm. Nhưng TAND Tp. Tam Kỳ ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không cho ông Hà bà Sương đăng ký Giấy CNQSĐ với lý do bà Tâm còn nợ tiền của người khác.
Tại các bản án sơ thẩm và phúc thẩm của TAND Tp. Tam Kỳ và tỉnh Quảng Nam đều không đề cập đến việc chuyển quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông Lê Công Hà với bà Nguyễn Thị Tâm mà bản án chỉ xét xử việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản do bà Nguyễn Thị Châu khởi kiện bà Tâm. Do vậy đề nghị TAND Tp. Tam Kỳ và Trưởng THA Tp. Tam Kỳ sớm giải quyết để đảm bảo quyền lợi của vợ chồng ông Lê Công Hà”.
Tiếp theo ngày 12-3-2010, Tổng Cục THA dân sự - Bộ Tư Pháp cũng có Công văn số: 496/THA-GQKNTC gửi Chi cục Thi hành án dân sự Tp. Tam Kỳ nêu rõ : “Theo trong hồ sơ và đơn khiếu nại thì ông Hà và bà Sương mua căn nhà số 191 Hùng Vương, thành phố Tam Kỳ, Quảng Nam là hoàn toàn hợp pháp, tuân thủ đúng quy định của pháp luật; không liên quan đến việc THA của ông Nguyễn Tấn Lực và bà Nguyễn Thị Tâm.
Về việc này, ngày 29-10-2009, tại Công văn số 89/ĐKT VKSND tỉnh Quảng Nam đã có ý kiến đề nghị xem xét giải quyết nhưng Chi cục THA dân sự Tp. Tam Kỳ không chấp hành. Đến ngày 20-1-2010, Chi cục THA dân sự Tp. Tam Kỳ đã cưỡng chế ngôi nhà trên, chuẩn bị đưa ra bán đấu giá. Việc cưỡng chế của Chi cục THA dân sự Tp. Tam Kỳ đã gây thiệt hại lớn đến quyền, lợi ích hợp pháp của ông Hà bà Sương”.
Dù các cơ quan lên tiếng như vậy nhưng ngày 5-5-2011, Chi Cục THA dân sự Tp. Tam Kỳ ký kết Hợp đồng số 56/HĐ-BĐG với Công ty Cổ phần Tư vấn tài chính và giá cả Quảng Nam đưa căn nhà số 191 Hùng Vương, Tp. Tam Kỳ ra bán đấu giá tài sản cho bà Nguyễn Thị Kiều Trang với giá 1,92 tỷ đồng. Tuy nhiên, người trúng đấu giá căn nhà đã nộp đủ số tiền nhưng đến nay hơn 6 tháng vẫn chưa bàn giao căn nhà được, do mắc phải nhiều sai phạm.
Khi kê biên tài sản là ngôi nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại căn nhà 191 Hùng Vương, Tp. Tam Kỳ, Chi cục THA dân sự Tam Kỳ không đưa vợ chồng ông Lê Công Hà và bà Nguyễn Thị Thu Sương là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong THA và tống đạt các văn bản về thi hành án theo quy định tại Điều 88 Luật THA dân sự là vi phạm nghiêm trọng thủ tục THA. Ngoài ra, theo Nghị định số 05 hướng dẫn về bán đấu giá tài sản thì tài sản đấu giá là bất động sản bắt buộc phải có GCNQSDĐ, trong khi đó GCNQSDĐ đang được ông Hà và bà Sương cất giữ, trong quá trình kê biên tài sản, bán tài sản nhưng không đưa ông Hà và bà Sương là người có nghĩa vụ liên quan.
Theo đơn khởi kiện yêu cầu hủy kết quả bán đấu giá của Chi Cục THA dân sự Tp. Tam Kỳ ký kết Hợp đồng số: 56/HĐ-BĐG với Công ty Cổ phần Tư vấn tài chính và giá cả Quảng Nam của bà Nguyễn Thị Tâm do hai cơ quan này cố ý làm thất thoát của bà hơn 600 triệu đồng. Theo bà Tâm khiếu nại thì, căn nhà tại 191 Hùng Vương, thành phố Tam Kỳ trước đây vợ chồng bà Tâm mua là 115,5m2, sau đó vợ chồng bà tiếp tục mua của người khác 38,5m, tổng diện tích 154m2 đất đã được vợ chồng ông Lực, bà Tâm xây dựng nhà ở toàn bộ, không có ai tranh chấp và khi xây dựng được chính quyền địa phương xác nhận ở trên 15 năm qua.
Tại biên bản khi đo đạc, kiểm kê thực tế theo biên bản kê biên của Chi Cục THA dân sự Tp. Tam Kỳ và Công ty Cổ phần Tư vấn tài chính và giá cả Quảng Nam thì nhà gắn liền trên đất là 154m2. Nhưng khi thẩm định giá, hai cơ quan trên lại thẩm định có 115,5m2 đất nhưng đưa ra bán đấu giá nhà 154m, đất 115,5m2. Ngược lại ngày 7-6-2011, ông Nguyễn Đức Dũng, chấp hành viên Chi Cục THA dân sự Tp. Tam Kỳ ra Thông báo số 75/TB-THA yêu cầu vợ chồng ông Lực, bà Tâm bàn giao căn nhà có tổng diện tích 154m (?!) Theo bà Tâm khiếu nại qua bán đấu giá đã gây thiệt hại trong THA 38,5m2 tương ứng với số tiền khoảng 640.000.000 đồng và còn nhiều thiệt hại tiếp theo.
Từ một vụ án dân sự “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” rất đơn giản, nhưng các cơ quan Tư pháp của tỉnh Quảng Nam đã đẩy vụ việc trở nên hết sức phức tạp, gây thiệt hại cho cả Nhà nước và người dân. Dư luận đang mong đợi câu trả lời của ngành Tư pháp tỉnh Quảng Nam.
Báo cũng có bài Kiên Giang: Chi cục Thi hành án dân sự bị kiện ra Tòa. Bài báo phản ánh: TAND huyện Kiên Lương vừa thụ lý vụ án về việc yêu cầu hủy bỏ kết quả bán đấu giá cũng như quyết định cưỡng chế giao nhà đất và yêu cầu Chi cục Thi hành án (THA) dân sự huyện Kiên Lương bồi thường thiệt hại theo đơn khởi kiện của ông Lê Văn Quốc; ông Lê Thanh Tùng và bà Lê Thị Hoàng Dung.
Như Báo Công lý đã phản ánh, Bản án số 57 ngày 21-12-2001 của TAND huyện Kiên Lương buộc bà Nguyễn Thị Thu Tư trú tại ấp Ba Hòn, xã Dương Hòa, huyện Kiên Lương phải trả cho bà Bùi Thị Thu Hạnh số 50 triệu đồng. Bà Hạnh có đơn yêu cầu THA. Ngày 30-11-2005, Cơ quan THA huyện Kiên Lương ra Quyết định số 05 cưỡng chế kê biên tài sản của gia đình bà Tư. Đáng lưu ý là tài sản mà Cơ quan THA huyện Kiên Lương kê biên để thực hiện việc THA đối với bà Tư là tài sản chung của vợ chồng bà Tư và ông Lê Văn Quốc.
Trong quá trình xử lý tài sản để THA, Chấp hành viên đã vi phạm nghiêm trọng pháp luật về THA. Theo khoản 1 Điều 43 Pháp lệnh THA dân sự năm 2004, “tài sản đã kê biên được định giá theo thỏa thuận giữa người được THA, người phải THA và chủ sở hữu chung trong trường hợp kê biên tài sản chung”. Thế nhưng, biên bản thực hiện quyết định kê biên tài sản lập lúc 14 giờ ngày 11-7-2006.
Một giờ sau, vào lúc 15 giờ ngày 11-7-2006, Chấp hành viên đã tiến hành thực hiện việc định giá tài sản mà không hề mời chủ sở hữu chung là ông Quốc đến để thỏa thuận giá theo luật định. Thậm chí, Cơ quan THA huyện Kiên Lương cũng không thông báo cho ông Quốc biết về việc tài sản của ông bị kê biên để xử lý THA. Rõ ràng, việc làm này của Cơ quan THA huyện Kiên Lương đã cố ý tước bỏ quyền tài sản đối với ông Quốc trong quá trình xử lý căn nhà của ông và bà Tư để THA.
Như nêu trên, bản thân ông Quốc là người không liên quan đến Bản án số 57 ngày 21-12-2001 của TAND huyện Kiên Lương. Lẽ ra, khi xử lý tài sản chung vợ chồng ông Quốc, bà Tư, Cơ quan THA huyện Kiên Lương phải thực hiện đúng theo qui định của pháp luật về thi hành án. Thế nhưng ở đây, Cơ quan THA huyện Kiên Lương đã cố tình bỏ qua những qui định pháp luật này khi tiến hành xử lý tài sản của vợ chồng bà Tư, ông Quốc. Việc làm này đã xâm phạm nghiêm trọng đến quyền tài sản của ông Quốc được pháp luật bảo vệ.
Ngày 11-7-2006, THA huyện Kiên Lương tiến hành kê biên căn nhà của gia đình bà Tư chiều ngang 4,2m, chiều dài 22m, tổng diện tích bằng 92,4m2. Thực tế, Cơ quan THA huyện Kiên Lương đã ký hợp đồng bán hết phần diện tích đất của gia đình bà Tư là 5m x 20m, kể cả lối đi với giá 177 triệu đồng. Trong khi đó, khoản 3 Điều 41 Pháp lệnh THA dân sự năm 2004 quy định: “Chỉ được kê biên tài sản của người phải THA đủ để bảo đảm THA và thanh toán các chi phí về THA”. Ở đây, Cơ quan THA huyện Kiên Lương kê biên và bán vượt cả phần được phép kê biên(!?)
Toàn bộ việc làm trên của Cơ quan THA huyện Kiên Lương bị VKSND tỉnh Kiên Giang ra Quyết định số 115 ngày 9-10-2007 kháng nghị việc THA của Chấp hành viên yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan THA huyện Kiên Lương bãi bỏ Quyết định cưỡng chế kế biên số 05 ngày 30-11-2005 và văn bản Hợp đồng ủy quyền bán đấu giá tài sản số 37 và quyết định cưỡng chế giao nhà số 36 ngày 12-7-2007 của Chấp hành viên để tiếp tục THA theo thủ tục chung. Ngày 13-7-2009, Văn phòng UBND huyện Kiên Lương có Văn bản số 217 thông báo kết luận của ông Tạ Minh Thành, Chủ tịch UBND huyện Kiên Lương xét thấy trong quá trình THA đối với gia đình bà Tư là có sai sót.
Trước những sai phạm trên của Chấp hành viên, ông Quốc, ông Tùng và bà Dung đã khởi kiện Cơ quan THA huyện Kiên Lương ra TAND huyện Kiên Lương yêu cầu hủy bỏ kết quả bán đấu giá cũng như quyết định cưỡng chế giao nhà đất và yêu cầu Chi cục THA dân sự huyện Kiên Lương bồi thường thiệt hại.
4. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Cơ quan không hợp tác, thừa phát lại than trời. Bài báo phản ánh: Chiều 9-11, Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp đã tổ chức hội thảo với Sở Tư pháp, ngành TAND, Thi hành án Dân sự (THADS) TP cùng các văn phòng thừa phát lại (VPTPL) để đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội sau hai năm thí điểm triển khai mô hình TPL trước khi đề xuất nhân rộng ra các đô thị trong cả nước.
Theo Sở Tư pháp TP, đến hết tháng 9-2011, các VPTPL TP.HCM đã tống đạt 34.837 văn bản, khá ít so với nhu cầu tống đạt hơn 1 triệu văn bản hằng năm của ngành tòa án và THADS TP. Các tòa và ngành THADS TP chưa tin TPL, giao những vụ khó mà chính họ từng tống đạt nhiều lần không được. Một số cơ quan, tổ chức và cán bộ địa phương chưa thật sự hỗ trợ cho thư ký TPL tống đạt giấy tờ. Chuyện không tin nhau đến mức đặt thêm quy định phải có con dấu xác nhận của UBND địa phương. Mới đây, cục trưởng Cục THADS TP phải chỉ đạo bãi bỏ lệ này.
Các VPTPL cũng than chuyện xác minh điều kiện THA theo yêu cầu của đương sự. Một số cơ quan nhà nước, đơn vị kinh tế chưa hoặc không hợp tác, hỗ trợ cung cấp thông tin cho TPL. Một số ngân hàng từ chối cung cấp thông tin về tài khoản của người phải THA; cơ quan đăng ký tài sản không cung cấp thông tin về tài sản… Thậm chí Ngân hàng Nhà nước còn ban hành công văn khẳng định yêu cầu cung cấp thông tin của TPL là không có căn cứ pháp lý.
5. Báo Sài Gòn giải phóng Online có bài Giải quyết vụ án có yếu tố nước ngoài - Vướng mắc vì ủy thác tư pháp. Bài báo phản ánh: Để giải quyết vụ án có yếu tố nước ngoài, hoạt động ủy thác tư pháp ra nước ngoài là vấn đề quan trọng, có tính chất quyết định trong việc đưa vụ án ra xét xử, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử thời gian qua cho thấy nhiều vụ án bị vướng mắc do việc thực hiện ủy thác tư pháp gặp nhiều khó khăn.
Trước khi có Luật Tương trợ tư pháp, tình hình ủy thác tư pháp ra nước ngoài chỉ thuận lợi đối với những nước ký Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự với Việt Nam. Dù vậy, thời gian tính từ ngày phát hành văn bản ủy thác đến lúc nhận kết quả thường rất lâu, quá thời gian ấn định ngày mở phiên tòa xét xử vụ án.
Kể từ khi có Luật Tương trợ tư pháp (có hiệu lực từ ngày 1-7-2008), tình hình này vẫn không có gì tiến triển. Nhiều vấn đề liên quan đến ủy thác tư pháp vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể nên gây ách tắc, làm rối các cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng. Việc không nhận được kết quả ủy thác tư pháp khiến công tác giải quyết vụ án bế tắc, dẫn đến tạm đình chỉ không thời hạn. Những trường hợp đã xét xử thì không thể chuyển được hồ sơ nếu có kháng cáo, kháng nghị, gây bức xúc gay gắt với đương sự ở trong nước vì kéo dài sự thiệt hại về quyền lợi của họ. Từ đó dẫn đến đương sự khiếu nại và cơ quan Nhà nước lại phải tốn thời gian, công sức giải quyết khiếu nại vốn không dừng ở một cấp.
Theo thẩm phán Trần Thị Hồng Việt, Chánh văn phòng Tòa án Nhân dân (TAND) TPHCM, qua thực tiễn hoạt động ủy thác tư pháp đã nổi lên nhiều vấn đề bất cập cần được hướng dẫn giải quyết như thực hiện ủy thác tống đạt văn bản, tài liệu; chi phí thực hiện ủy thác tư pháp... Để giải quyết tình trạng này, TAND TPHCM liên tục có những kiến nghị, đề ra các giải pháp tháo gỡ nhưng dường như những kiến nghị này không được các cơ quan có thẩm quyền xem xét thấu đáo. Mới đây, ngành TAND TPHCM lại tiếp tục có kiến nghị tháo gỡ những bất cập.
Đối với một vụ án, sau khi thụ lý vụ án, tòa án ở Việt Nam có văn bản ủy thác đến tòa án có thẩm quyền ở nước ngoài để tống đạt thông báo thụ lý, ghi lời khai của đương sự về nội dung cần giải quyết của vụ án, triệu tập đến phiên tòa vào một ngày giờ đã ấn định, thông thường là 3 tháng sau ngày phát hành văn bản ủy thác. Hết thời hạn 3 tháng không có kết quả, tòa án lại tiếp tục ủy thác những nội dung như lần thứ nhất và ấn định ngày mở phiên tòa sau 2 tháng kể từ ngày phát hành văn bản. Sau 2 tháng không nhận được kết quả phản hồi, thời hạn chuẩn bị xét xử đã hết nên tòa án ra quyết định tạm đình chỉ, nếu không vụ này sẽ trở thành án quá hạn. Thực tế, trong thời hạn 5 tháng như trên, văn bản cần tống đạt chưa thể đến cơ quan có thẩm quyền ở nước ngoài.
Về chi phí thực hiện ủy thác tư pháp của Việt Nam ra nước ngoài, theo quy định của Luật Tương trợ tư pháp, trong trường hợp Việt Nam yêu cầu, Việt Nam phải trả chi phí nhưng chi phí này được thực hiện như thế nào thì vẫn chưa có hướng dẫn. Có trường hợp, TAND TPHCM ủy thác đến Tòa án Phuket của Thái Lan tống đạt tài liệu thì nơi này yêu cầu nộp chi phí là 300 baht. Điều này dẫn đến vướng mắc vì không biết ai phải nộp, TAND TPHCM hay đương sự? Trong trường hợp đương sự đồng ý nộp chi phí tống đạt, việc thu nộp được thực hiện như thế nào cũng cần được hướng dẫn từ Bộ Tư pháp (là cơ quan đầu mối tiếp nhận ủy thác tư pháp).
Để việc giải quyết các vụ án đúng quy định của pháp luật, đảm bảo quyền lợi của các công dân, tránh tình trạng kéo dài việc giải quyết vụ án, hạn chế những mâu thuẫn phát sinh nơi người dân, những vấn đề bất cập trên cần được nhanh chóng tháo gỡ.