I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo CAND online đưa tin: Chiều 27/7, trước phiên họp toàn thể, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nghe báo cáo tổng hợp ý kiến thảo luận tại các đoàn đại biểu Quốc hội về dự kiến số Phó Chủ tịch và số Ủy viên Hội đồng Dân tộc; số Phó Chủ nhiệm và số Ủy viên của mỗi Ủy ban của Quốc hội; số thành viên của Đoàn thư ký kỳ họp Quốc hội. Đa số các đại biểu nhất trí với tờ trình nói trên.
Quốc hội biểu quyết về số Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc gồm 4 người, tổng số thành viên là 40. Số Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật là 5, tổng thành viên 40. Số Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp là 5, số thành viên 30. Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế 4 người, số thành viên là 45. Số Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách là 4, tổng số thành viên 37. Số Phó Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng - An ninh là 3, tổng số thành viên 36. Số Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên, Nhi đồng là 4, thành viên là 43. Số Phó Chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội 4, tổng số thành viên 50. Số Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường 4, tổng số thành viên 33. Số Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại 3, số thành viên 36. Đoàn thư ký kỳ họp 13 người.
Tiếp đó, Chủ tịch Quốc hội đã đọc Tờ trình danh sách đề cử vào chức vụ Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, Chủ nhiệm các Ủy ban. Theo đó, có 10 người được giới thiệu vào các chức danh trên, trong đó có 4 người tái đề cử.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cũng trình bày Tờ trình của Ủy ban Thường vụ Quốc hội giới thiệu danh sách đề cử chức vụ cụ thể để Quốc hội bầu vào các chức danh nói trên. Chủ tịch Quốc hội trình bày Tờ trình đề nghị Quốc hội miễn nhiệm chức vụ Tổng Kiểm toán Nhà nước đối với ông Vương Đình Huệ để nhận nhiệm vụ mới.
Ngày 28/7, các đoàn đại biểu Quốc hội tiếp tục trao đổi về dự kiến nhân sự các Ủy ban và việc miễn nhiệm Tổng Kiểm toán Nhà nước.
2. Trang thông tin chính thức của Đài Truyền hình Việt Nam có bài Hà Nội sẽ có 5 đô thị vệ tinh. Bài báo phản ánh: Ngày 26/7, Thủ tướng chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết định số 1259/QĐ-TTg chính thức phê duyệt Quy hoạch chung thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050. Theo đó, phạm vi lập quy hoạch gồm toàn bộ diện tích địa giới hành chính Thủ đô Hà Nội rộng khoảng 3.344,6 km2 với tính chất là Thủ đô nước CHXHCN Việt Nam. Trung tâm hành chính - chính trị quốc gia vẫn đặt tại Ba Đình. Tuy nhiên, một số bộ, ngành sẽ chuyển trụ sở đến khu Mỹ Đình và khu Tây Hồ Tây. Không quy hoạch các cơ quan Chính phủ tại Ba Vì…
Cũng theo quy hoạch, Hà Nội sẽ có 5 đô thị vệ tinh là Hòa Lạc, Sơn Tây, Xuân Mai, Phú Xuyên-Phú Minh và Sóc Sơn và các đô thị sinh thái. Đô thị trung tâm từ vành đai 4 trở vào sẽ là trung tâm chính trị, văn hóa, dịch vụ, y tế, giáo dục chất lượng cao của cả nước.
Đặc biệt, các thị trấn được kết nối bằng hệ thống giao thông đường vành đai kết hợp các trục hướng tâm, có kết nối với mạng lưới giao thông vùng và quốc gia. Đô thị trung tâm được phân cách các đô thị vệ tinh, các thị trấn bằng hành lang xanh chiếm 70% diện tích đất tự nhiên của Thành phố.
Dự kiến, sáng 29/7, Bộ Xây dựng sẽ công bố quy hoạch này và từ đầu tháng 8, người dân sẽ được xem quy hoạch Hà Nội tại Cung Quy hoạch quốc gia đặt tại Mỹ Đình (Từ Liêm, Hà Nội).
3. Báo Đầu tư có bài Ủy quyền giao dịch chứng khoán: Rối như canh hẹ! Bài báo phản ánh: Thời điểm thi hành Thông tư số 74/2011/TT-BTC về giao dịch chứng khoán đã cận kề (ngày 1/8 tới), nhưng nội dung ủy quyền giao dịch chứng khoán trong Thông tư 74 và hướng dẫn của cơ quan quản lý vẫn đang khiến các CTCK lúng túng.
Đến thời điểm này, việc xử lý ủy quyền giao dịch chứng khoán đang "rối như canh hẹ" do thiếu hướng dẫn cụ thể của UBCK. Một số CTCK thông báo tới NĐT rằng, các văn bản ủy quyền cũ sau ngày 1/8 sẽ hết hiệu lực, thậm chí là vô hiệu như MeKong, VNDirect, Trường Sơn, KimEng… Phần lớn CTCK còn lại im lặng không nói gì và điều này được nhiều người ngầm hiểu là văn bản ủy quyền cũ vẫn có hiệu lực.
Trước băn khoăn của nhiều CTCK về vấn đề ủy quyền giao dịch và thực hiện Thông tư 74, UBCK đã dự thảo công văn hướng dẫn Thông tư kể trên. Theo bản dự thảo, kể từ ngày 1/8/2011, tất cả các giấy ủy quyền giao dịch trước đây trái với Thông tư 74 đều không có hiệu lực bao gồm: ủy quyền cho nhân viên của CTCK, ủy quyền cho NĐT khác nhưng không có xác nhận của chính quyền địa phương hoặc công chứng. Việc ủy quyền giao dịch phải lập dưới dạng hợp đồng ủy quyền có xác nhận của chính quyền địa phương hoặc công chứng.
Dự thảo trên nhận ý kiến phản hồi thiếu tích cực từ phía CTCK. Các CTCK cho rằng, về mặt pháp luật, các văn bản uỷ quyền trước ngày 1/8 không có công chứng, chứng thực không có gì trái pháp luật. Thông tư 74 không quy định hồi tố và cũng không nói gì việc uỷ quyền cũ phải làm lại (không có điều khoản chuyển tiếp). Do đó, dự thảo công văn yêu cầu phải làm lại uỷ quyền cũ là không phù hợp với nội dung Thông tư 74. Vì vậy, nếu bắt buộc phải làm lại uỷ quyền cũ, các CTCK đề nghị sửa đổi Thông tư 74, quy định rõ việc này để có cơ sở giải thích và yêu cầu NĐT thực hiện. Đồng thời, có thời hạn chuyển tiếp từ 3 - 6 tháng để cho NĐT làm lại uỷ quyền cũ.
Theo các thành viên thị trường, hiện đã là cuối tháng 7, nhưng công văn hướng dẫn của UBCK vẫn chưa được ban hành. Nếu quy định từ ngày 1/8, các giấy ủy quyền giao dịch trước đây trái với Thông tư 74 đều không có hiệu lực, thì các CTCK sẽ không có thời gian để làm thủ tục với NĐT và rất dễ dẫn đến khiếu kiện.
4. Trang VEF.VN có bài Hành chính hóa thu hồi đất: Đổ thêm dầu vào lửa? Bài báo phản ánh: Trong những năm qua, có đến 70% số trường hợp khiếu tố trên cả nước thuộc về lĩnh vực đất đai, trong đó nguyên nhân mức bồi thường đất không thỏa đáng, chiếm đến 70% trong tổng số đơn thư khiếu tố đất đai. Thực trạng này đã và vẫn đang được xem là một "điểm nóng" của xã hội và cho tới nay chưa hề có dấu hiệu bớt căng thẳng.
Một trong những nguồn cơn chính của tình trạng đó là khi thực hiện công tác bồi thường giải phóng mặt bằng, nhiều chủ đầu tư dự án đã tìm nhiều biện pháp ép người dân nằm trong diện phải giải tỏa phải chịu mức giá thấp hoặc không ngang bằng với giá thị trường. Có những trường hợp người bị giải tỏa rơi vào tình thế trắng tay sau khi buộc phải nhận tiền đền bù - vấn nạn mà họ gọi là "nạn cướp đất".
Trong nhiều trường hợp khác, khi không ép được người phải giải tỏa nhận tiền đền bù thiếu thỏa đáng, chủ dự án đã tạo ra một thứ "dịch vụ" bằng cách nhờ đến sự can thiệp của chính quyền địa phương nơi tiến hành dự án.
"Dịch vụ" này liên quan mật thiết đến biện pháp cưỡng chế hành chính, có khi cưỡng chế thô bạo, bỏ mặc lời khẩn cầu của đối tượng bị giải tỏa.
Từ việc thỏa thuận mang tính dân sự thuần túy, những biện pháp ép buộc và cưỡng chế hành chính đã vô hình trung biến hành vi dân sự thành yếu tố có tính hình sự, lại càng làm cho người dân bất bình và dẫn đến nhiều hơn phản ứng khiếu kiện, khiếu tố về đất đai, khiến cho các cơ quan công quyền phải mất rất nhiều thời gian để giải quyết.
Gần đây, có thông tin cho biết một quy định mới về "tiếp cận đất đai" đang được dự thảo và đề xuất bởi Tổng cục Quản lý đất đai - Bộ Tài nguyên và Môi trường (xem bài "Tiếp cận đất đai: Nhà đầu tư sẽ "dễ thở" hơn?", VnEconomy ngày 26/7/2011). Trong đó, Tổng cục Quản lý đất đai đề xuất hai phương án:
Thứ nhất, bỏ việc nhà đầu tư tự thoả thuận việc mua đất để thực hiện dự án phát triển kinh tế, thay vào đó Nhà nước thu hồi đất đối với mọi trường hợp.
Thứ hai, vẫn giữ cơ chế nhà đầu tư tự thoả thuận việc mua đất, nhưng bổ sung theo hướng trường hợp nhà đầu tư mua được trên 80% diện tích đất cho dự án, hoặc mua được đất của trên 80% số chủ sử dụng ở trong khu vực dự án, mà phần diện tích đất còn lại, hoặc số chủ sử dụng đất còn lại nhà đầu tư không thoả thuận được, thì Nhà nước ra quyết định thu hồi đất.
Chiếu theo Luật Đất đai, có quy định là nhà đầu tư phải tự thỏa thuận với người sử dụng đất khi muốn triển khai dự án đầu tư; còn nhà nước chỉ quyết định thu hồi đối với một số dự án đầu tư quan trọng.
Đối với quy định này, theo nhận xét của ông Lê Thanh Khuyến, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Quản lý đất đai, đã giúp giảm áp lực trong việc thu hồi đất bằng các quyết định hành chính, nhưng trên thực tế lại tạo ra sự bất bình đẳng giữa chủ đầu tư các dự án lớn (được nhà nước ra quyết định thu hồi) và dự án nhỏ (tự thỏa thuận).
Hơn nữa, Tổng cục Quản lý đất đai đã ghi nhận, khi thực hiện cơ chế tự thỏa thuận giữa nhà đầu tư với người sử dụng đất thì giá thỏa thuận thường cao hơn giá bồi thường dẫn tới khó khăn cho việc thu hồi đất của dự án khác trong cùng địa bàn. Một thống kê của cơ quan này cũng cho hay một số dự án đã thỏa thuận được trên 90% diện tích đất nhưng vẫn không hoàn tất được việc thu hồi đất do 10% còn lại không đồng ý nhưng không có cơ chế xử lý.
Vậy những lý do mà Tổng cục Quản lý đất đai nêu ra đã đủ thuyết phục cho việc soạn thảo một quy định mới về thu hồi đất hay không? Cần nhắc lại, theo những thông tin từ chính Bộ Tài nguyên và Môi trường (VietNamNet ngày 6/8/2006), có đến 70% trong tổng số trường hợp khiếu tố về đất đai là vể giá đất tính bồi thường thấp hơn so với giá thị trường, 20% là khiếu nại đòi bồi thường thêm theo giá đất mới. Thông thường, điều mà người chịu giải tỏa yêu cầu là "giá bồi thường hợp lý".
Thực tế, những người trong cuộc (người bị giải tỏa, chủ dự án và cơ quan quản lý nhà nước) đều nằm lòng "chủ trương" bồi thường cho người dân của không ít chủ dự án là đi từ thấp đến cao, ban đầu đưa ra mức giá thấp với nhiều lý do nhằm buộc người dân phải chấp nhận, sau đó nếu thấy khó khăn và bị người dân phản ứng mạnh mới dần từng bước nâng giá bồi thường lên đến một mức mà người dân có thể chấp nhận như "giá bồi thường hợp lý". Mức giá hợp lý này đương nhiên phải cao hơn, hoặc cao hơn hẳn mức giá bồi thường ban đầu được chủ dự án áp đặt.
Chính khoảng cách giữa "giá bồi thường hợp lý" với "giá bồi thường" đã làm phát sinh khiếu kiện và phản ứng của người dân trong những năm qua. Khoảng cách này càng lớn thì mức độ khiếu kiện càng trầm trọng. Việc xử lý khoảng cách này đã được Luật Đất đai quy định là tự thỏa thuận, cũng là một phương thức làm nhẹ bớt căng thẳng xã hội.
Nay, với hai phương án mà Tổng cục Quản lý đất đai đề xuất đề thiên về biện pháp hành chính là "thu hồi đất", liệu có phải là một động tác "đổ thêm dầu vào lửa"? Nếu đề xuất này được cấp trên thông qua và ban hành, đúng là nhiều chủ dự án sẽ "dễ thở" vì họ lại được trở về với không khí ưu đãi trước khi có quy định về cơ chế tự thỏa thuận giá bồi thường. Với ưu đãi mang tính đặc quyền này, họ sẽ lại được quyền đưa ra những mức giá đền bù thấp hơn hẳn giá thị trường, còn nếu người bị giải tỏa không đồng ý thì họ luôn có thể dùng tới biện pháp "dịch vụ" - nhờ vả sự can thiệp của chính quyền địa phương để hành chính hóa việc thu hồi đất thông qua hoạt động cưỡng chế.
Cũng cần nhắc lại là hoạt động khiếu kiện đất đai hiện nay đã khác nhiều với cách đây gần mười năm. Trước năm 2005, hoạt động này chỉ diễn ra lẻ tẻ, rời rạc, mang tính cá nhân đơn lẻ. Nhưng những năm sau đó, khiếu kiện đất đai dần trở nên một hoạt động mang tính xã hội, có liên kết và có tổ chức giữa các nhóm cá nhân, thậm chí giữa các địa phương.
Trong quan điểm giải quyết vấn đề đất đai, Nhà nước không bao giờ lại muốn hoạt động này chịu áp lực của những căng thẳng không đáng có, cũng như không nên để vấn đề này trở thành một "điểm nóng" mà khiến cho Nhà nước lẫn người dân đều phải bức xúc và khó nghĩ trong các cuộc đối thoại.
Thế nên việc những cơ quan quản lý nhà nước về đất đai như Tổng cục Quản lý đất đai dự kiến ban hành những quy định liên quan đến công tác bồi thường giải phóng mặt bằng, thu hồi đất... , cần được cân nhắc cẩn trọng về tính khả thi lẫn xem xét tổng hòa trên phương diện xã hội - chính trị, hạn chế đến mức tối thiểu khả năng xảy ra tiêu cực từ cán bộ thực hiện bồi thường, mang lại công bằng cho người dân bị giải tỏa.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo điện tử Chính phủ đưa tin: Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với các Bộ: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công Thương, Tư pháp khẩn trương hoàn thành, trình Chính phủ Dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật An toàn thực phẩm trước ngày 30/9/2011.
Các Bộ: Y tế, Nông nghiệp và Phát triển, Công Thương kịp thời ban hành các Thông tư hướng dẫn theo quy định của Luật An toàn thực phẩm, để có thể thực hiện đồng bộ ngay khi Nghị định được ban hành và có hiệu lực.
Thủ tướng tạm thời cho phép thực hiện các quy định về quản lý an toàn thực phẩm tại các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành không trái với quy định của Luật An toàn thực phẩm, cho đến khi Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật An toàn thực phẩm được ban hành và có hiệu lực.
2. Báo Tầmnhìn.net có bài Tạm giữ hình sự Phó Trưởng phòng Tư pháp huyện chống CSGT. Bài báo đưa tin: Ngày 27/7, Cơ quan Cảnh sát Điều tra (CSĐT) Công an Quận Cái Răng, TP. Cần Thơ đã ra quyết định tạm giữ hình sự đối với Phó Trưởng phòng Tư pháp huyện Châu Thành (tỉnh Hậu Giang) là ông Huỳnh Thanh Thắng (sinh năm 1962, ngụ Khu vực 3, phường Lê Bình, quận Cái Răng, TP.Cần Thơ) để tiếp tục điều tra làm rõ hành vi “Chống người thi hành công vụ”.
3. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có các bài:
3.1. Chính quyền hỗ trợ, thừa phát lại thuận lợi. Bài báo phản ánh: Căn nhà nằm trên đường Nguyễn Trãi, phường 14, quận 5 (TP.HCM) do ba anh em ông LTV thuê của Nhà nước. Họ thống nhất cho ông V. đứng tên thuê nhà, sau đó đứng tên mua nhà khi Nhà nước hóa giá. Theo thỏa thuận, vợ chồng ông V. hùn 55% tiền mua nhà, hai người em hùn phần còn lại. Mua xong nhà và được cấp chủ quyền, họ sẽ bán rồi chia theo tỉ lệ vốn góp. Ông V. không bán nhà để chia như thỏa thuận nên bị một người em khởi kiện. Hai cấp tòa sơ, phúc thẩm đều quyết định phát mại căn nhà tranh chấp để chia theo tỉ lệ các bên đã hùn tiền mua.
Sau đó, em của ông V. yêu cầu Văn phòng Thừa phát lại quận 5 thi hành án. Ông V. không hợp tác, khiếu nại đến Sở Tư pháp TP, cho rằng văn phòng thừa phát lại đã lạm quyền. Giám đốc Sở Tư pháp TP đã bác đơn khiếu nại này, khẳng định Văn phòng Thừa phát lại quận 5 đã làm đúng trình tự pháp luật quy định.
Hết thời gian tự nguyện thi hành án, ngày 24-7 vừa qua, Văn phòng Thừa phát lại quận 5 đã tổ chức cưỡng chế đối với vợ chồng ông V. Phía ông V. đuổi đoàn cưỡng chế ra khỏi nhà, khóa cửa. Ngay sau đó, chính quyền địa phương đã cử cán bộ quận, cán bộ và Công an phường 14 đến hỗ trợ đoàn cưỡng chế. Sau khi được vận động, cuối cùng phía ông V. đã chấp nhận để đoàn cưỡng chế làm nhiệm vụ.
Ông Phạm Quang Giang, Trưởng Văn phòng Thừa phát lại quận 5, rất cảm kích trước sự hỗ trợ kịp thời của UBND quận 5 và UBND phường 14: “Sự hỗ trợ này là yếu tố quan trọng để thừa phát lại chúng tôi thực hiện tốt chức năng của mình” - ông Giang nói.
3.2. Ai ra quyết định thu hồi đất? Bài báo phản ánh: Sau bài “Ra quyết định sai thẩm quyền, xử lý sao?” (Pháp Luật TP.HCM ngày 21-6), ông Phạm Trần Gia Hùng, cán bộ thanh tra huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, đã gửi đến báo Văn bản số 3004 ngày 25-8-2009 của Bộ Tư pháp để góp phần làm rõ vấn đề.
Văn bản này do Vụ Pháp luật Hình sự - Hành chính (Bộ Tư pháp) biên soạn để trả lời thắc mắc của Sở Tư pháp tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu về thẩm quyền ban hành quyết định thu hồi đất.
3.3. Thi hành án tiền nợ BHXH: Khó đủ đường. Bài báo phản ánh: Mấy năm qua, ngành Bảo hiểm Xã hội TP.HCM đã được tòa các cấp tuyên thắng cả trăm vụ kiện đòi doanh nghiệp nộp tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Dù vậy, việc thi hành án lại gặp nhiều khó khăn vì doanh nghiệp không có tài sản hoặc chấp hành viên còn thờ ơ…
Đến nay, trong tổng số 82 vụ mà ngành BHXH TP yêu cầu thi hành án (THA) đã xác định 22 doanh nghiệp (DN) tại TP.HCM bị tòa tuyên phải trả tổng cộng 26 tỉ đồng tiền nợ bảo hiểm xã hội (BHXH) đã ngưng hoạt động, chủ DN trốn về nước.
Đầu tháng 7 vừa qua, Ban Giám đốc BHXH TP đã có buổi làm việc với lãnh đạo Cục THA dân sự TP để bàn hướng tháo gỡ các khó khăn trên. Tại buổi làm việc, Cục trưởng Cục THA TP Nguyễn Văn Lực cho biết cơ quan THA đã nhận thức được những khó khăn từ phía cơ quan BHXH. Cục THA TP sẽ đôn đốc các Chi cục THA quận, huyện tháo gỡ vướng mắc trong từng vụ. Thậm chí, cơ quan BHXH có thể tổ chức các buổi đối thoại định kỳ với cơ quan THA để nghe phản ánh khó khăn, bức xúc...
Phó Giám đốc BHXH TP Nguyễn Đăng Tiến đánh giá đây là một sự hỗ trợ rất kịp thời nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động: “Trước mắt, chúng tôi cần phía cơ quan THA phối hợp giải quyết dứt điểm những vụ đang tồn đọng mà nguyên nhân là chấp hành viên chậm trễ, thờ ơ. Về lâu dài, giải pháp căn cơ hơn là phải có văn bản hướng dẫn giữa hai cơ quan để quá trình thực hiện được thống nhất”.
4. Báo Sài Gòn giải phóng có bài Luật “đá” nhau, dân lãnh đủ! Bài báo phản ánh: Vào năm 2007, ông Lê Văn Danh (ngụ tại phường Trường Thọ, quận Thủ Đức, TPHCM) thỏa thuận cho bà Trần Thái Hoan (ngụ tại đường Gia Phú, phường 3, quận 6, TPHCM) vay tiền với lãi suất 2%/tháng. Ông Danh đã 9 lần đưa tiền cho bà Hoan vay, nhưng do bà Hoan không thanh toán cả lãi và vốn nên đến ngày 3-9-2008, hai bên tiến hành chốt nợ.
Theo đó, bà Hoan viết giấy xác nhận còn nợ ông Danh 3,7 tỷ đồng, lãi suất 2%/tháng trong thời hạn 3 tháng; nếu đến tháng thứ tư mà bà Hoan vẫn chưa trả vốn thì sẽ trả lãi cho ông Danh 10%/tháng. Giấy xác nhận nợ có 2 người làm chứng cùng ký tên.
Tháng 6-2009, do bà Hoan vẫn không thanh toán tiền, ông Danh khởi kiện ra Tòa án Nhân dân quận 6, đồng thời đề nghị tòa án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, cấm bà Hoan chuyển dịch căn nhà thuộc sở hữu của bà tại số 19 đường số 15, khu phố 1, phường Linh Chiểu, quận Thủ Đức (gọi tắt là nhà số 19) để đảm bảo việc thi hành án.
Tháng 9-2009, TAND quận 6 mở phiên tòa xét xử sơ thẩm, tuyên bà Hoan phải trả cho ông Danh số tiền 3,7 tỷ đồng. Bà Hoan kháng cáo lên TAND TPHCM, tuy nhiên dù được triệu tập xét xử hợp lệ 2 lần nhưng bà vẫn vắng mặt không có lý do. Tháng 2-2010, TAND TPHCM ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự tranh chấp hợp đồng vay tài sản nói trên, tuyên bản án sơ thẩm của TAND quận 6 có hiệu lực pháp luật.
Ông Danh làm đơn yêu cầu thi hành án (THA) và Chi cục THA dân sự quận 6 ủy thác cho Chi cục THA dân sự quận Thủ Đức thực hiện. Ông Danh tưởng rằng mọi việc đã đến hồi kết, căn nhà của bà Hoan sẽ bị kê biên và phát mãi để thanh toán tiền nợ cho ông. Thế nhưng…
Ngay sau khi thụ lý vụ việc, chấp hành viên của Chi cục THA dân sự quận Thủ Đức xác minh và xác định được bà Hoan mua căn nhà số 19 từ bà Vang Ngọc Thanh; hợp đồng chuyển nhượng nhà đất của hai bên lập tại Phòng Công chứng số 4 vào ngày 7-4-2009. Đến ngày 17-6-2009, UBND quận Thủ Đức đã cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đối với căn nhà nói trên cho bà Hoan (đổi sổ).
Tuy nhiên, vấn đề rắc rối ở chỗ, chỉ 11 ngày sau khi ký hợp đồng mua căn nhà từ bà Thanh, dù chưa hoàn tất thủ tục đăng bộ sang tên (đổi sổ) thì bà Hoan đã ký hợp đồng chuyển nhượng căn nhà nói trên cho người khác là ông Nguyễn Văn Thành, có chứng nhận của Văn phòng công chứng Chợ Lớn vào ngày 18-4-2009 (thời điểm này, căn nhà chưa bị TAND quận 6 ra văn bản ngăn chặn). Do vậy, chấp hành viên không thể kê biên tài sản để thi hành án.
Ông Danh có đơn khiếu nại, đề nghị cơ quan chức năng làm rõ việc Văn phòng công chứng Chợ Lớn chứng nhận hợp đồng chuyển nhượng nhà đất khi bà Hoan chưa đăng bộ, sang tên là đúng hay sai so với quy định pháp luật. Về vấn đề này, cơ quan THA dân sự cũng thấy “lúng túng”, vì hiện nay pháp luật quy định mâu thuẫn nhau về xác định thời điểm chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với bất động sản.
Cụ thể, theo quy định của Luật Nhà ở thì quyền sở hữu nhà ở được chuyển cho bên mua từ thời điểm hợp đồng chuyển nhượng được công chứng (khoản 5, Điều 93). Còn theo quy định của Bộ luật Dân sự thì “Việc chuyển quyền sở hữu đối với bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sở hữu (khoản 1, Điều 168); đối với tài sản mua bán mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì quyền sở hữu được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký quyền sở hữu (khoản 2, Điều 439) và việc chuyển quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sử dụng đất (Điều 692)”.
Do vậy, Chi cục THA dân sự quận Thủ Đức phải chờ hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền để xác định chủ sở hữu, chủ sử dụng nhà, đất số 19 là ai thì mới có thể tiến hành các bước xử lý tài sản theo quy định.
Thế là, chỉ vì sự quy định chồng chéo của luật mà quyền lợi hợp pháp của người dân cứ bị “treo” không biết đến khi nào mới được giải quyết.
5. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Nhiều khuất tất vụ chia tài sản sau ly hôn tại Nha Trang. Bài báo phản ánh: Ngày 21/9/2010, TAND TP.Nha Trang (tỉnh Khánh Hòa) đã đưa vụ án ly hôn ra xét xử sơ thẩm giữa nguyên đơn là ông Bùi Khắc Chiến (SN 1968) và bị đơn là bà Lê Thị Dung (SN 1978, đều ở Phước Lợi, Phước Đồng, Nha Trang).
Ngày 22/12/2010, TAND tỉnh Khánh Hòa đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm và đã tuyên: Công nhận sự thỏa thuận giữa ông Chiến, bà Dung; công nhận toàn bộ căn nhà ký hiệu A+B+C theo đo vẽ của cơ quan chức năng năm 2010, căn nhà xây dựng trên 180m2 (là tài sản chung) của ông Chiến và Dung trị giá 1.067.000.000 đồng.
Theo đó, ông Chiến tự nguyện giao cho bà Dung quản lý sử dụng 180m2 đất và sở hữu căn nhà xây dựng trên 180m2 đất; bà Dung thanh toán cho ông Chiến trị giá một nửa căn nhà và một nửa thửa đất có giá trị bằng tiền là 533.669.000 đồng; bà Dung được quyền liên hệ với các cơ quan thẩm quyền để làm thủ tục xác lập quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại thửa đất số 12, tờ bản đồ số 29 thôn Phước Lợi, xã Phước Đồng, Nha Trang (sau khi thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho ông Chiến số tiền 533.669.000 đồng).
Vậy nhưng, sau phiên tòa này, bà Dung vẫn có đơn gửi đến các cơ quan chức năng và báo chí. Bà Dung trình bày: Khi ông Chiến có đơn yêu cầu thi hành án (THA) thì cũng là lúc bà Dung gặp nhất nhiều khó khăn về kinh tế, đặc biệt là bị suy sụp về tinh thần, bà liên tục phải đi cấp cứu và chữa trị tại một số bệnh viện tại TP.HCM...
Mặc dù vậy, bà vẫn tỏ rõ thiện chí trong việc THA, cụ thể ngày 4/7/2011, bà Dung có đơn xin tự nguyện thi hành án theo kế hoạch cụ thể: Sẽ thanh toán cho ông Chiến toàn bộ số tiền nhưng sẽ phân kỳ thành 8 lần. (đơn này có xác nhận của chính quyền địa phương). Ngoài ra bà Dung đang có đơn yêu cầu các cơ quan chức năng phân chia lô đất 1.143m2 số thửa 615 thuộc tờ bản đồ số 10 tại thôn Phước Điền, xã Phước Đồng, Nha Trang để bà lấy một nửa giá trị lô đất này thi hành án...
Trong lúc đơn của bà Dung chưa được các cơ quan chức năng giải quyết thì Thi hành án dân sự (THADS) Nha Trang liên tục gửi giấy triệu tập thúc ép bà Dung phải thi hành án. Và ngày 23/6/2011, cơ quan này đã ban hành Quyết định số 28 với nội dung kê biên nhà, đất bà Dung đang sử dụng, đồng thời ban hành 2 quyết định cưỡng chế đề ngày 14/7/2011 và 23/6/2011. Đáng nói, cả 2 quyết định cưỡng chế này đều không được giao cho bà Dung.
Bà Dung thắc mắc: Các giấy triệu tập vào các ngày 16/5, 20/5 và 08/7/2011 gửi cho bà Dung đều có chung một số 180/THA. Giấy mời số 16, ngày 11/7/2011 gửi cho bà Dung theo dấu bưu điện Khánh Hòa thể hiện ngày 13/7/2011 mời bà Dung có mặt lúc 9h ngày 13/7/2011, nhưng mãi đến ngày 15/7/2011 bưu điện mới báo phát thì làm sao bà Dung đến làm việc vào ngày 13/7? Hơn nữa, ngày 13/7, bà Dung đang nằm điều trị tại Bệnh viện 175 (TP.HCM), có giấy của bệnh viện, và bà có đơn xin tạm hoãn thi hành quyết định kê biên nhà lý do đang nằm điều trị bệnh, cũng như có gửi đơn khiếu nại về quyết định kê biên này ngày 7/7/2011 nhưng chưa được giải quyết.
Các chi tiết trên thể hiện nhiều dấu hiệu sai phạm của cơ quan THADS Nha Trang trong thủ tục hành chính nhưng cơ quan này lại đổ hết lỗi cho bà Dung, cho rằng bà Dung không chịu THA để rồi áp dụng nhiều biện pháp thái quá đối với bà Dung.
Cần phải nhắc lại: Hoàn cảnh trước mắt của bà Dung đang rất khó khăn, chưa thể thực hiện thi hành án ngay một lần, và thực tế chứng minh bà Dung không trây ì, trốn tránh bởi bà vẫn còn các tài sản nhà đất đang sử dụng và còn một nửa lô đất là tài sản chung với ông Chiến. Xét cả về pháp lý và đạo lý, trong trường hợp này cơ quan THADS không cần dùng “biện pháp mạnh” như vậy.
6. Báo Nhân dân có bài Cần xét lại việc thi hành một bản án dân sự ở TP Hồ Chí Minh. Bài báo phản ánh: Ngày 27-1-2005, Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao đã quyết định: Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên quyết định của Bản án dân sự phúc thẩm số 319/PTDS ngày 13-12-2002 của Tòa phúc thẩm Tòa án Nhân dân tối cao tại TP Hồ Chí Minh đã xét xử vụ án đòi nhà giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Văn Quế với bị đơn là ông Ðỗ Văn Mừng (đã chết), có những người thừa kế quyền và nghĩa vụ theo luật định tham gia tố tụng là bà Nguyễn Thị Thành, ông Ðỗ Văn Nhiều, bà Ðỗ Thị Kim Vân, ông Ðỗ Văn Tấn, bà Ðỗ Thị Kim Vui và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Trần Thị Hoàng Mai. Sở dĩ bà Mai có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ tranh chấp đòi nhà này với lý do bà đã mua căn nhà số 3 Lam Sơn, phường 5, quận Phú Nhuận của ông Nguyễn Văn Trầm (bố đẻ của ông Nguyễn Văn Quế) ngày 25-2-1992. Theo Bản án phúc thẩm số 319 nói trên thì: Bà Mai là người mua nhà ngay tình. Bởi vậy, bản án này đã phán quyết: Hủy bỏ việc mua bán căn nhà số 3 Lam Sơn, phường 5, quận Phú Nhuận, TP Hồ Chí Minh giữa ông Nguyễn Văn Trầm và bà Trần Thị Hoàng Mai. Buộc bà Trần Thị Hoàng Mai giao trả căn nhà cùng toàn bộ giấy tờ chủ quyền căn nhà này cho ông Nguyễn Văn Quế do bà Huỳnh Thị Muông làm đại diện nhận. Buộc ông Nguyễn Văn Quế do bà Huỳnh Thị Muông làm đại diện phải giao cho bà Mai 119,11 lượng vàng SJC ngay khi nhận được căn nhà nêu trên. Buộc ông Ðỗ Văn Mừng (đã chết) có bà Thành và các con chung Ðỗ Văn Tấn, Ðỗ Văn Nhiều, Ðỗ Thị Kim Vân, Ðỗ Thị Kim Vui là các đại diện thừa kế quyền và nghĩa vụ theo luật định giao cho bà Mai 1.833,49 lượng vàng SJC.
Các đương sự thi hành việc giao nhận vàng, nhà và giấy tờ nhà kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật. Và Bản án phúc thẩm số 319/PTDS ngày 13-12-2002 của Tòa phúc thẩm Tòa án Nhân dân tối cao tại TP Hồ Chí Minh đã được Thi hành án TP Hồ Chí Minh tổ chức cưỡng chế thi hành ngày 8-10-2008. Theo đó, bà Trần Thị Hoàng Mai đã bị buộc ra khỏi nhà và cho đến nay bà chưa hề nhận được chút nào trong số 1.952,6 lượng vàng SJC như Bản án dân sự số 319/PTDS ngày 13-12-2002 đã tuyên. Trong khi đó, ngôi nhà số 3 Lam Sơn, phường 5, quận Phú Nhuận, TP Hồ Chí Minh đã nhanh chóng được sang tên đổi chủ.
Kể từ khi bị cưỡng chế ra khỏi nhà và không nhận được gì trong số gần hai nghìn lượng vàng nói trên, bà Trần Thị Hoàng Mai đã gửi đơn đến nhiều cơ quan ở Trung ương và cơ quan báo chí tố cáo Thi hành án dân sự TP Hồ Chí Minh đã có những vi phạm trong việc thi hành Bản án số 319/PTDS của Tòa phúc thẩm Tòa án Nhân dân tối cao, gây thiệt hại nghiêm trọng đến quyền lợi của bà.
Trong đơn tố cáo, bà Mai cho rằng, quyết định giải quyết khiếu nại của Trưởng Thi hành án dân sự là không đúng quy định của pháp luật, trong đó đã nhận định trái ngược với Bản án số 319 của Tòa phúc thẩm Tòa án Nhân dân tối cao. Bản án nhận định: "Bà là người mua nhà ngay tình", tức là mua nhà hoàn toàn đúng với quy định của pháp luật. Khi lập thủ tục mua bán nhà có đầy đủ giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu của người bán, giấy ủy quyền việc mua bán có chứng thực của địa phương chứ không phải là mua bán "trái pháp luật" như nhận định của Thi hành án dân sự TP Hồ Chí Minh. Việc ông Nguyễn Văn Quế ủy quyền cho bà Huỳnh Thị Muông tham gia tố tụng là không hợp pháp, bởi Tờ ủy quyền không có chứng thực của lãnh sự Việt Nam tại Bỉ. Hơn nữa, ngày 21-8-2003 bà Huỳnh Thị Ðủ ký hợp đồng ủy quyền cho bà Huỳnh Thị Muông, nhưng tháng 2-2007 bà Ðủ chết, vì vậy, hợp đồng ủy quyền cho bà Muông đã hết hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, ngày 6-10-2008 bà Huỳnh Thị Muông lại đề nghị Thi hành án dân sự TP Hồ Chí Minh giao nhà cho ông Vũ Thành Công và đề nghị của bà Muông được Thi hành án dân sự TP Hồ Chí Minh chấp nhận là việc làm trái pháp luật.
Trong đơn bà Mai còn dẫn ra nhiều vi phạm khác của Thi hành án dân sự TP Hồ Chí Minh. Xem xét Biên bản cưỡng chế ngày 8-10-2008 (đề lần 1), chúng tôi thấy, phần: Ðại diện bên được Thi hành án, người ký là Bùi Bắc, Thi hành án, không có mặt Huỳnh Thị Muông. Biên bản cưỡng chế thi hành án (đề lần 2), cùng giờ, cùng ngày như trong Biên bản cưỡng chế thi hành án lần 1, phần Ðại diện bên được Thi hành án, vẫn không có mặt bà Huỳnh Thị Muông, nhưng thêm vào đó lại có tên: Vũ Thành Công. Vậy Vũ Thành Công là ai? Theo quyết định giải quyết khiếu nại của Thi hành án dân sự TP Hồ Chí Minh số 1222/QÐ-THA đề ngày 12-5-2009 có ghi: "Tại biên bản ngày 6-10-2008, bà Huỳnh Thị Muông (sinh năm 1926) trình bày do sức khỏe yếu nên ngày cưỡng chế bà không tham dự được, bà đề nghị giao nhà cho ông Vũ Thành Công, cam kết không có thắc mắc khiếu nại gì". Còn theo đơn tố cáo của bà Trần Thị Hoàng Mai thì Vũ Thành Công là em trai của ông Vũ Ðình Chiến, cán bộ đấu giá nhà thuộc Sở Tư pháp TP Hồ Chí Minh. Nếu căn cứ vào Ðiểm C, Khoản 2, Ðiều 156 Bộ luật Dân sự, thì hợp đồng ủy quyền giữa bà Huỳnh Thị Ðủ và bà Huỳnh Thị Muông đã hết hiệu lực từ tháng 2-2007, sau khi bà Ðủ chết. Do vậy, việc bà Muông lại tiếp tục ủy quyền cho ông Vũ Thành Công là không hợp pháp.
Chính vì những việc làm thiếu căn cứ như trên của Thi hành án dân sự TP Hồ Chí Minh, đã gây thiệt hại nghiêm trọng đến quyền lợi của bà Trần Thị Hoàng Mai và đến nay, nhà thì mất, tiền vẫn không nhận được. Theo nhận định của Thanh tra Chính phủ trong Công văn đề ngày 5-6-2009 gửi: Ðồng chí Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp, thì khiếu nại của bà Mai là có cơ sở.
Ðể bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân, chúng tôi kiến nghị, đã đến lúc các cơ quan chức năng ở T.Ư, trong đó có Cục Ðiều tra - Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, với chức năng điều tra tội phạm trong hoạt động tư pháp cần vào cuộc để xem xét lại việc thi hành bản án dân sự nói trên tại TP Hồ Chí Minh.