Điểm tin báo chí sáng ngày 01 tháng 12 năm 2009

01/12/2009
Trong buổi sáng ngày 01/12/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Dân trí điện tử có bài Chung cư làm văn phòng: Cấm nhưng vẫn “có ngoại lệ”. Bài báo phản ánh: Việc cấm căn hộ chung cư làm văn phòng đã trở thành tâm điểm chú ý trong những ngày qua, thậm chí đã và đang có những biến động không nhỏ tới thị trường BĐS. Xung quanh vấn đề này, Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Trần Nam đã có cuộc trao đổi với báo giới.
Đã có ý kiến cho rằng, không thể cấm chủ sở hữu sử dụng căn hộ chung cư làm văn phòng, thứ trưởng giải thích như thế nào?
Tại khoản 1, điều 70 của Luật Nhà ở 2005 quy định: “Nhà chung cư là nhà ở có từ 2 tầng trở lên”. Do vậy, các căn hộ chung cư chỉ sử dụng để ở không sử dụng vào mục đích khác. Luật kinh doanh BĐS cũng quy định nghĩa vụ bên mua nhà là “sử dụng nhà, công trình xây dựng đúng công năng thiết kế”.Bên cạnh đó, Luật Xây dựng nói rõ “nội dung thiết kế xây dựng công trình phải phù hợp, thỏa mãn với yêu cầu về chức năng sử dụng”. Điều đáng nói là nhà chung cư được thiết kế theo mục đích sử dụng với các tiêu chuẩn về tải trọng, cấp điện, thang máy, nơi thoát nạn, phòng cháy, chữa cháy… phù hợp với nhà ở. Nếu sử dụng sai mục đích sẽ không đảm bảo các điều kiện an toàn.
Tuy nhiên, trong luật dân sự quy định chủ sở hữu có quyền được định đoạt tài sản của mình như: kinh doanh, mua, bán, chuyển nhượng... và căn hộ chung cư cũng là một tài sản của họ?
Việc cho thuê, mua, kinh doanh… đều phải được sử dụng đúng quy định trong các luật chuyên ngành về BĐS. Cần lưu ý rằng, quyền sở hữu đối với BĐS không được như các tài sản khác bởi BĐS gắn liền với đất, mà đất thuộc sở hữu toàn dân.Đối với đất đai, nhà nước có quyền quy hoạch, có thể cho chỗ này xây văn phòng, chỗ kia làm nhà ở… Vì vậy, quyền sở hữu trong BĐS của người dân có hạn chế hơn.
Nhưng trên thực tế đang rất phổ biến tình trạng căn hộ chung cư được dùng làm văn phòng. Nếu bây giờ cấm e rằng sẽ gây khó khăn cho nhiều người…?
Một mặt nào đó, việc sử dụng căn hộ chung cư làm văn phòng, nhà xưởng, nhà trẻ… là nhu cầu có thật của một số hộ gia đình. Mặt khác một số người đã mua căn hộ chung cư để tích lũy tài sản và trong khi chưa dùng đến thì làm kinh doanh như cho thuê. Nếu người thuê sử dụng làm nhà ở thì được nhưng nếu làm văn phòng, nhà trẻ thì sẽ gây ra nhiều bất cập. Một căn hộ 100m2 chỉ có vài người ở nhưng có thể lên tới hàng chục người nếu dùng làm công ty, gây áp lực về hạ tầng như điện, nước, thang máy, đỗ xe… Nếu sử dụng căn hộ làm nhà trẻ thì việc thoát hiểm khi có sự cố là rất đáng lo!
Đối với việc sử dụng căn hộ làm văn phòng, công ty có quy mô “gia đình” thì không hẳn đã ảnh hưởng tới những cư dân sống xung quanh?
Mặc dù luật pháp không cho phép (như đã phân tích), nhưng các địa phương có thể căn cứ vào điều kiện thực tiễn cho phép mở các công ty quy mô “gia đình” trong chung cư.
Như vậy thì hiện nay cũng rất khó để xác định được chỗ nào được dùng căn hộ chung cư làm văn phòng, chỗ nào không?
Văn bản của Bộ Xây dựng gửi 6 tỉnh, thành có ý để các địa phương có lộ trình, từ kiểm tra, rà soát tới chấn chỉnh, lên phương án cụ thể chứ cũng không đưa ra cấm ngay hay ra một thời hạn cụ thể nào. Cũng có thể là sau 6 tháng hay 1 năm, tùy theo mức độ điều tra của từng địa phương về thực trạng trên địa bàn.
Những nơi đã “trót” làm nhiều văn phòng trong nhà chung cư để ở thì liệu có được thay đổi công năng không, thưa thứ trưởng?
Việc điều chỉnh công năng sử dụng là do địa phương quyết định.
Thứ trưởng đánh giá thế nào những tác động của thị trường căn hộ nếu việc cấm sử dụng văn phòng chung cư được làm nghiêm?
Nhìn ở góc độ xã hội, việc các chủ sở hữu nhà tự ý chuyển mục đích sử dụng chứng tỏ họ không có nhu cầu thực tế về nhà ở mà chỉ là đầu cơ vào BĐS khiến cho thị trường không phản ánh đúng quy luật cung cầu làm cho giá căn hộ chung cư không thể xuống được. Đây chính là vấn đề mà các cơ quan quản lý luôn phải cân nhắc để làm sao đáp ứng được phần lớn số đông nhưng có thể ảnh hưởng tới một bộ phận nào đó như những người có căn hộ để kinh doanh, những người có nhu cầu thuê văn phòng…
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh phản ánh: Trong hai ngày 30-11 và 1-12, nữ nghị sĩ các nước ASEAN đã đến Hà Nội tham gia hội nghị “Vai trò của nữ nghị sĩ trong quá trình xây dựng pháp luật”. Hội nghị do Quốc hội Việt Nam tổ chức, trên cương vị chủ tịch Hội đồng Liên nghị viện các nước Đông Nam Á (AIPA) nhiệm kỳ 2009-2010. Các nữ nghị sĩ ASEAN thảo luận và đưa ra khuyến nghị về một cơ chế hợp tác khu vực nhằm chia sẻ thông tin, kinh nghiệm giữa các nữ nghị sĩ trong việc xây dựng pháp luật và lồng ghép giới.
Theo bà Nguyễn Thị Bạch Mai, Phó Chủ tịch Nhóm nữ nghị sĩ Việt Nam, để có thể tham gia hiệu quả vào quá trình làm luật, nữ nghị sĩ Quốc hội cần có những kỹ năng đặc thù, trong đó kỹ năng tham vấn và phản biện là quan trọng nhất. “Để nâng cao năng lực làm luật cho các nữ nghị sĩ cần sửa đổi quy trình lập pháp, có cơ chế khuyến khích nữ nghị sĩ thực hiện quyền sáng kiến lập pháp” - bà Mai đề xuất.
Báo cũng có bài Vì sao công chức ít cười. Bài báo phản ánh: Theo quy định, công chức giải quyết công việc của dân ngoài việc phải đảm bảo chính xác về thời gian và chất lượng công việc thì thái độ với dân phải tận tình, hòa nhã, tươi cười. Lâu nay thường thấy người dân than phiền cán bộ, công chức nhà nước làm khó, hành dân ra bã. Đúng là có thực tế ấy. Thế nhưng đi một vòng các phòng tiếp dân, chúng tôi nhận thấy cán bộ, công chức cũng có những nỗi khổ riêng bắt nguồn từ thái độ chưa đúng mực của người dân khiến nhiều khi không thể cười nổi.
UBND phường Nguyễn Thái Bình (quận 1, TP.HCM) một buổi sáng giữa tháng 11, nhân viên tổ sao y, chứng thực tất bật với hàng xấp hồ sơ dày cộm. Hơn chục người dân đang ngồi chờ đến lượt mình. Bảng điện tử mới đến số 35 thì có một người đàn ông ôm một chồng giấy đến nói với cô nhân viên “xem giúp”. Cô này trả lời vị khách cứ lấy số thứ tự rồi ngồi chờ gọi đến lượt theo thứ tự chứ không thể chen ngang. Vị khách chả quan tâm, bỏ luôn chồng giấy lên bàn của cô rồi ra ghế ngồi chờ. Ngồi chưa ấm chỗ, vị này vừa thấy cô nhân viên ngưng tay đóng dấu lại tiến tới yêu cầu giải quyết giùm. Cô này đành hỏi số thứ tự của vị khách thì ông chìa ra số thứ tự là 41! Lần thứ hai vị khách phải quay ra chờ nhưng cũng nhấp nhổm chưa được năm phút lại tới hỏi... Những trường hợp như vậy không hiếm gặp tại các phòng tiếp dân.
Theo anh Lê Văn Quang, Tổ trưởng Tổ Tiếp công dân (quận Bình Thạnh), cán bộ tiếp dân gặp áp lực từ nhiều phía mà phía người dân không phải là ít. “Mình tiếp dân để hướng dẫn và giải thích là chính chứ đâu có thể giải quyết được vụ việc đó. Nhưng người dân thì cứ nghĩ bộ phận tiếp dân là giải quyết được, thành ra nhiều khi mình giải thích họ không nghe mà còn đập bàn quát lại mình” - anh Quang cho hay.
Ông Lê Minh Phát, Phó Chủ tịch UBND phường Nguyễn Thái Bình (quận 1, TP.HCM): Trung bình một ngày một người trực lãnh đạo phường phải ký tới 1.500 chữ ký sao y, chứng thực. Yêu cầu cán bộ, công chức khi gặp người dân là phải cười nhưng với lượng hồ sơ nhận vào như thế thì cười không nổi. Mỗi loại giấy tờ nhận vào người tiếp nhận phải qua rất nhiều công đoạn (kiểm tra, đóng dấu sao y, trình lãnh đạo ký, đóng dấu tròn, vô số chứng thực, ghi biên lai trả cho người dân). Nhiều việc vậy mà đòi hỏi cán bộ, công chức phải vừa cười, nói niềm nở vừa giải quyết công việc với người dân thì người sau đợi cũng mệt! Do đó chỉ có thể cắm cúi làm việc cho nhanh để giải quyết cho người dân. Hướng dẫn tận tình, nói năng hòa nhã và không nhăn nhó với người dân đã là một thành công chứ không thể nói xây dựng “Nụ cười công chức” là lúc nào cũng phải cười ra miệng.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Nhân dân phản ánh: Sáng 30-11, tại TP Ðà Nẵng, Bộ Tư pháp tổ chức sơ kết ba năm triển khai thi hành Luật Trợ giúp pháp lý (TGPL), một năm thực hiện Ðề án quy hoạch mạng lưới Trung tâm TGPL nhà nước và Chi nhánh giai đoạn 2008-2010, định hướng đến năm 2015; hai năm triển khai thực hiện Thông tư liên tịch số 10-2007/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC ngày 28-11-2007 của Liên ngành Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, Tòa án Nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định về TGPL trong hoạt động tố tụng và một số nội dung có liên quan.
Tham dự hội nghị có Bộ trưởng Tư pháp Hà Hùng Cường, lãnh đạo một số bộ, ngành, thành viên Hội đồng phối hợp liên ngành TGPL trong hoạt động tố tụng ở Trung ương cấp tỉnh; cơ quan Trung ương các tổ chức đoàn thể xã hội, lãnh đạo Sở Tư pháp và Trung tâm TGPL nhà nước 63 tỉnh, thành phố. Hội nghị đã đánh giá những kết quả đạt được trong ba năm qua, triển khai, tổ chức thực hiện, quán triệt, phổ biến, truyền thông pháp luật về TGPL; kiện toàn, xây dựng mạng lưới TGPL, phát triển nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và hiệu quả kinh tế-xã hội và những tác động của hoạt động TGPL, những tồn tại, hạn chế, và những bài học kinh nghiệm trong quá trình thực hiện.
Hội nghị thảo luận làm rõ vị trí, vai trò của công tác TGPL trong việc bảo đảm quyền con người; giám sát thực hiện pháp luật ở địa phương; Ðề án TGPL cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật, giai đoạn 2010-2015, định hướng đến năm 2020; những vướng mắc, bất cập và yêu cầu đặt ra trong quản lý, sử dụng tài chính Quỹ TGPL Việt Nam và thực trạng hoạt động TGPL thí điểm cho các nhóm đối tượng đặc thù như phụ nữ, người nhiễm HIV, người dân tộc thiểu số, người chưa thành niên...
2. Báo Lao động có bài Tự mở rồi tự đóng. Bài báo phản ánh: Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường nói về việc đối xử với những cầu thủ nhập tịch khác với cầu thủ trong nước đã lên tiếng: "Đã là công dân VN thì phải được đối xử bình đẳng". Lời khẳng định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp khác xa với đại diện của Bộ Tư pháp khi góp ý với VFF về vấn đề này, dù thành viên này sau đó đã khẳng định đấy là ý kiến cá nhân của mình.
Điều này cũng được Uỷ viên Ban chấp hành VFF Phạm Phú Hoà (người duy nhất có phiếu chống việc hạn chế cầu thủ nhập tịch) chia sẻ: "Đại diện Bộ Tư pháp đến họp cùng VFF và phát biểu với tư cách cá nhân không phải là quan điểm của Bộ Tư pháp. Thế mà VFF cứ cho đấy là chỉ đạo và ra quyết định, đứng trên cả luật pháp nhà nước. Tôi bỏ phiếu chống và biết mình làm đúng, nhưng ở đấy tôi thấy đơn độc quá!".
Hôm 29/11, một thành viên của VFF nhiệm kỳ trước nói với tôi: "VFF phải chịu trách nhiệm về việc "mở" cho cầu thủ nhập tịch tràn lan dễ dãi, rồi sau đó hoảng quá vội khép lại. Đó là việc có những hồ sơ chưa đủ chuẩn, nhưng VFF lại xác nhận vào là nếu cầu thủ ngoại này trở thành công dân VN thì rất có lợi cho bóng đá VN, cho đội tuyển VN. Thế là căn cứ vào xác nhận đấy mà Bộ Tư pháp mới đồng ý chuyển hồ sơ lên Chủ tịch Nước phê duyệt để cầu thủ này được nhập tịch".
Điều đó cho thấy VFF đã "mở" để cầu thủ nhập tịch được "đặc cách", rồi sau đó thì cũng chính VFF "đóng" bằng quy định vi phạm luật pháp quốc gia. Bây giờ, trước làn sóng chỉ trích và thái độ phản kháng của các CLB và chính những cầu thủ nhập tịch, thì cái khó ấy lại được đẩy lên Bộ Tư pháp.
3. Báo Tuổi trẻ trên mục Pháp luật có bài Luật “chỏi” nhau. Bài báo phản ánh: Theo Bộ luật dân sự, đối với tài sản mua bán mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu (như nhà đất) thì thời điểm chuyển quyền sở hữu được tính kể từ khi bên mua hoàn thành thủ tục đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản đó. Cùng quan điểm trên, Luật đất đai năm 2003 và nghị định hướng dẫn cũng cho rằng thời điểm chuyển quyền sử dụng đất là từ khi người nhận chuyển nhượng hoàn tất thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất (thường gọi là đi đăng bộ nhà đất). Như vậy, sau khi ký hợp đồng mua bán tại cơ quan công chứng chứng thực, người mua còn phải đi đăng bộ, tức là sang tên mình trên giấy chủ quyền thì mới chính thức được xem là chủ sở hữu của tài sản.
Thực tế, muốn đi đăng bộ được, người mua, người bán phải hoàn thành nghĩa vụ thuế thu nhập và lệ phí trước bạ. Thông thường, thời gian kể từ khi ký hợp đồng mua bán đến lúc hoàn tất thủ tục sang tên nhanh nhất cũng trên mười ngày. Trong khi đó, Luật nhà ở năm 2005 quy định: thời điểm chuyển quyền sở hữu nhà kể từ khi hợp đồng mua bán được công chứng chứng thực, nghĩa là sớm hơn nhiều so với quy định của Bộ luật dân sự. Thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với tài sản, nhất là nhà đất có ý nghĩa rất quan trọng. Đối với cơ quan thi hành án, trong việc kê biên tài sản để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án, việc xác định chủ sở hữu nhà đất ở thời điểm kê biên là ai là rất cần thiết.
Theo cơ quan thi hành án, khi xác minh người phải thi hành án đứng tên nhà, đất thì cơ quan thi hành án ra quyết định kê biên để thi hành. Tuy vậy, khi kê biên lại phát hiện trước đó họ đã ký hợp đồng bán nhà cho người khác. Nếu căn cứ vào Luật dân sự, Luật đất đai thì nhà vẫn thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành án, cơ quan thi hành án được quyền kê biên, phát mãi căn nhà để thi hành. Nhưng nếu theo Luật nhà ở thì nhà trên đã thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người mua, cơ quan thi hành án không có quyền kê biên. Do vậy, cơ quan thi hành án bị đặt vào thế khó: kê biên nhà thì người mua khiếu nại, không kê biên thì người được thi hành án cũng khiếu nại cho rằng cơ quan thi hành án để người có tài sản tẩu tán, không thi hành bản án.
Theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trong trường hợp các văn bản luật có mâu thuẫn sẽ áp dụng văn bản có giá trị cao hơn. Trường hợp các văn bản có giá trị ngang nhau thì áp dụng văn bản được ban hành sau. Dù vậy, trong thực tế vẫn có sự tranh cãi do quan điểm chưa thống nhất rằng liệu Bộ luật dân sự có được coi là cao hơn các luật khác hay không? Về phía người dân, rõ ràng là chẳng ai hài lòng khi cùng là luật nhưng luật này “chỏi” luật kia, muốn giải quyết người dân phải tìm thêm một luật nữa (Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật). Có một nguyên tắc lẽ ra các nhà làm luật phải hết sức chú ý đó là tính thống nhất, dễ hiểu của pháp luật. Văn bản luật ra sau cần rà soát các quy định của văn bản trước đó để không mâu thuẫn. Còn nếu thấy quy định của văn bản trước không phù hợp thì các nhà làm luật nên quy định luôn việc hủy bỏ trong văn bản ra sau. Luật có rõ ràng thì việc áp dụng mới minh bạch, mới không còn chuyện “được” lựa chọn văn bản luật để áp dụng theo hướng mình muốn, chuyện “ông nói gà, bà nói vịt” hay chuyện tranh cãi triền miên giữa các cơ quan chức năng.
Báo cũng có bài Giấy nào là “giấy tờ tùy thân”?. Bài báo phản ánh: Câu hỏi có thể bị cho là “ngớ ngẩn”, nhưng thấy vậy mà không phải vậy. Bởi hiện nay mỗi lĩnh vực lại quy định các loại giấy tờ tùy thân khác nhau.
Giấy tờ tùy thân được hiểu là những giấy tờ có thể giúp xác định đặc điểm nhận dạng và nhân thân của một người. Nghị định 05/1999/NĐ-CP của Chính phủ đã khẳng định giấy chứng minh nhân dân (CMND) là một loại giấy tờ tùy thân của công dân. Ngoài ra, theo nghị định 136/2007/NĐ-CP về xuất nhập cảnh, hộ chiếu quốc gia có thể được sử dụng thay thế giấy CMND. Ngoài hai loại giấy tờ này, trong các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước trung ương ban hành hiện nay hầu như không có loại giấy tờ nào khác được trực tiếp khẳng định là giấy tờ tùy thân.
Tuy vậy, khi xem xét các văn bản, ta dễ dàng thấy có nhiều loại giấy tờ khác được chấp nhận thay cho giấy tờ tùy thân, còn đó là giấy tờ nào, thì... tùy! Ví dụ, trong việc tạm giữ người theo thủ tục hành chính, thông tư 26/2007/TT-BCA của Bộ Công an có quy định người không có giấy tờ tùy thân là người không mang theo CMND hoặc hộ chiếu còn giá trị sử dụng hay các giấy tờ có giá trị thay thế hộ chiếu. Trường hợp không mang theo các giấy tờ đó nhưng có những giấy tờ khác có dán ảnh kèm theo như giấy phép lái xe, thẻ sinh viên, thẻ hội viên... thì cũng có thể coi đó là có giấy tờ tùy thân.
Còn trong lĩnh vực hàng không, hành khách quốc tịch VN khi bay nội địa có thể xuất trình một trong các loại giấy tờ sau: hộ chiếu, giấy CMND, giấy chứng minh, chứng nhận của các lực lượng vũ trang, thẻ đại biểu Quốc hội, thẻ đảng viên, thẻ nhà báo, giấy phép lái ôtô, môtô, thẻ kiểm soát an ninh hàng không, thẻ nhận dạng của các hãng hàng không VN, giấy chứng nhận nhân thân có xác nhận của công an phường xã nơi cư trú (điều 29 chương trình an ninh hàng không dân dụng VN ban hành kèm quyết định 06/2007/QĐ-BGTVT).
Ngoài ra, trước đây giấy cớ mất CMND cũng được chấp nhận khi hành khách làm thủ tục bay nội địa. Tuy nhiên, loại giấy này hiện nay không còn được chấp nhận.
Trong lĩnh vực y tế, người có bảo hiểm y tế khi đến khám bệnh có thể xuất trình thẻ BHYT có ảnh hoặc giấy tờ tùy thân có ảnh hợp lệ, song giấy tờ nào được chấp nhận thì không có hướng dẫn cụ thể (điểm a, tiết 2, mục I, phần A thông tư 17/1998/TT-BYT).
Còn trong lĩnh vực công chứng, theo quy định tại điều 35 Luật công chứng, người yêu cầu công chứng phải có bản sao giấy tờ tùy thân. Tuy nhiên, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật công chứng không thấy đề cập đó là những giấy tờ nào. Nói đến giấy tờ tùy thân trong công chứng, ắt hẳn nhiều người sẽ nghĩ ngay đến sự việc xảy ra tại văn phòng công chứng Gia Định (bài “Người chết... ký giấy bán đất” - Tuổi Trẻ ngày 7-10). Theo đó, công chứng viên đã công chứng bản hợp đồng chuyển nhượng đất cho một người chủ giả mạo trong khi người chủ đất thật sự đã chết, vì công chứng viên đã chấp nhận giấy cớ mất CMND do người chủ giả mạo trình ra.
Việc không quy định rõ giấy tờ tùy thân sẽ gây khó cho cả người dân lẫn cơ quan hành chính. Bởi lẽ, trong trường hợp người dân không có CMND hợp lệ (như bị mất, hết hạn sử dụng...), cán bộ thực hiện thủ tục dễ bị lúng túng trong việc chấp nhận hay không chấp nhận các giấy tờ khác.
Vì những lẽ đó, theo tôi, pháp luật nên có quy định rõ ràng, cụ thể về các loại giấy tờ tùy thân được chấp nhận trong từng lĩnh vực. Hiện nay, tại một số tỉnh thành như Long An đã có văn bản thống nhất các giấy tờ nào được xem là giấy tờ tùy thân khi người dân yêu cầu công chứng (khoản 3, điều 5 quyết định 19/2009/QĐ-UBND ngày 27-5-2009 của UBND tỉnh Long An).


File đính kèm