Điểm tin báo chí sáng ngày 25 tháng 11 năm 2009

25/11/2009
Trong buổi sáng ngày 25/11/2009, một số báo chí đã có bài phản ánh những vấn đề lớn của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Tuổi trẻ phản ánh: Ngày 24-11, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã phát lệnh khởi công dự án xây dựng đường cao tốc Hà Nội - Thái Nguyên. Thủ tướng đánh giá tuyến đường cao tốc không chỉ giảm tải cho quốc lộ 3 mà còn quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội giữa Hà Nội và các tỉnh Bắc Ninh, Thái Nguyên cũng như vùng Việt Bắc. Dự án do Bộ Giao thông vận tải làm chủ đầu tư có chiều dài 61,3km, quy mô bốn làn xe, tốc độ thiết kế 100km/giờ.
Cùng ngày, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã tới thăm và chúc mừng, động viên tinh thần các đơn vị thực hiện bắc cầu phao Chèm trên sông Hồng. Tính đến chiều qua, đã có hơn 1.500 xe lưu thông qua cầu phao Chèm. Tuy nhiên, do nền đường dẫn từ bãi giữa sông Hồng xuống cầu chưa được gia cố tốt nên nhiều xe bị sa lầy, bộ đội công binh phải dùng xe chuyên dụng và xe ủi để kéo trợ lực cho hàng chục chiếc xe gặp sự cố. Mỗi lần cứu kéo xe sa lầy, dòng xe phải dừng lại chờ đợi nên xảy ra ùn tắc cục bộ. Có thời điểm tình trạng ùn ứ diễn ra hơn một giờ, khiến xe chờ qua cầu xếp hàng dài cả cây số. Để khắc phục lún sụt, bộ đội công binh sẽ phối hợp với Sở Giao thông vận tải Hà Nội thi công gia cố nền đường, lắp thêm các vệt chống lầy.
Báo cũng phản ánh: Kết thúc thanh tra việc thực hiện cổ phần hóa tại Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN) và một số đơn vị thành viên, Thanh tra Chính phủ xác định EVN đã có nhiều sai phạm. Cụ thể, EVN sử dụng gần 757 tỉ đồng thu được từ cổ phần hóa để chi tạm ứng cho các dự án đầu tư mà chưa báo cáo Thủ tướng, thực hiện cổ phần hóa chậm, xử lý tài sản không cần dùng, xác định giá trị tài sản doanh nghiệp còn nhiều thiếu sót…
Thanh tra Chính phủ kết luận việc thực hiện cổ phần hóa các đơn vị thuộc EVN chưa đảm bảo tiến độ được phê duyệt theo các quyết định của Thủ tướng. Tính đến thời điểm thanh tra mới chỉ có 30/55 đơn vị trong kế hoạch được cổ phần hóa. Trong khi đó, Nhà máy nhiệt điện Phả Lại và Nhà máy thủy điện Thác Bà không có tên trong danh mục được tiến hành cổ phần hóa, sai với nội dung các quyết định của Thủ tướng về việc phê duyệt đề án tổng thể, sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước thuộc EVN.
Đối với ba đơn vị thành viên của EVN bị thanh tra gồm Công ty cổ phần Nhiệt điện Phả Lại, Công ty cổ phần Điện lực Khánh Hòa, Công ty cổ phần Chế tạo thiết bị điện Đông Anh, Thanh tra Chính phủ xác định hai trong ba đơn vị chưa bàn giao tài sản không cần dùng cho cơ quan chức năng; Công ty cổ phần Chế tạo thiết bị điện Đông Anh chưa nộp trên 15 tỉ đồng vốn nhà nước về EVN; hai trong ba doanh nghiệp áp dụng không đúng suất đầu tư, đơn giá xây dựng cơ bản để xác định nguyên giá nhà cửa dẫn đến giảm giá trị doanh nghiệp gần 4,5 tỉ đồng. Thanh tra Chính phủ kiến nghị Thủ tướng giao bộ trưởng Bộ Công thương, chủ tịch EVN chỉ đạo kiểm điểm trách nhiệm tập thể, cá nhân liên quan đến thiếu sót, sai phạm.
2. Báo Người lao động phản ánh: Tại hội thảo “ASEAN hội nhập kinh tế khu vực” do Viện Khoa học pháp lý và kinh doanh quốc tế, Hội Luật gia VN tổ chức ngày 24-11 ở TPHCM, ông Trương Đình Tuyển, nguyên bộ trưởng Bộ Thương mại, đã đưa ra những đánh giá về thành tựu kinh tế, đồng thời chỉ ra những thách thức của VN trong cộng đồng các quốc gia ASEAN.
Nổi cộm là vấn đề hiện nay VN nhập siêu lớn từ các nước trong khu vực. Trong năm 2008, VN xuất khẩu sang các nước ASEAN khoảng 10,194 tỉ USD nhưng lại nhập khẩu đến 19,57 tỉ USD. Từ năm 2003-2008, tỉ lệ nhập siêu bình quân là 27%, cao hơn nhiều so với mức nhập siêu chung của VN trên tất cả các thị trường. Điều này chứng tỏ sức cạnh tranh về hàng hóa của VN thấp hơn các nước ASEAN và chưa tận dụng được chế độ ưu đãi thuế trong khu vực để đẩy mạnh xuất khẩu.
VN nhập siêu từ Trung Quốc và Ấn Độ cũng rất lớn. “Thực trạng này đặt ra vấn đề đối với việc ký kết các hiệp định mậu dịch tự do sắp tới cần phải được xem xét trên cơ sở lợi ích thương mại của VN trong tầm nhìn dài hạn” – ông Tuyển nhấn mạnh.
3. Báo Lao động có bài Vụ án Nông trường sông Hậu vi phạm Luật Tố tụng hình sự. Bài báo phản ánh:Bài báo phản ánh:
* Luật sư Nguyễn Trường Thành (Văn phòng Luật sư Vạn Lý, Đoàn LS TP.Cần Thơ): Việc kết án về tội "lập quỹ trái phép" không đảm bảo tính hợp pháp.Với tư cách là luật sư (LS) bào chữa cho bị cáo Trần Ngọc Sương - nguyên GĐ Nông trường Sông Hậu (NTSH), bị điều tra, truy tố và xét xử về tội "lập quỹ trái phép" - tôi đã tham gia vụ án từ giai đoạn điều tra cho đến phiên toà phúc thẩm. Trong suốt quá trình tố tụng, bản thân bà Sương cũng như luật sư đã có rất nhiều văn bản đề nghị các cơ quan tiến hành tố tụng xem xét lại quá trình điều tra, truy tố và xét xử vì vi phạm nghiêm trọng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Thế nhưng, các cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó có toà án 2 cấp sơ thẩm và phúc thẩm đều không quan tâm đến kiến nghị của các luật sư cũng như khiếu nại của bị cáo Sương để giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện; từ đó dẫn đến việc điều tra, truy tố và kết án bà Trần Ngọc Sương về tội "lập quỹ trái phép" là không bảo đảm tính hợp pháp.
* LS Bùi Quang Nhơn (Đoàn LS TP.Cần Thơ): Xem xét kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm với bản án.Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như lời khai của các bị cáo trước phiên toà phúc thẩm thì bị cáo Trần Ngọc Sương không hề "lập quỹ trái phép" - theo định danh của các cơ quan tố tụng, mà có chăng chỉ là người duy trì quỹ, vì quỹ này được thành lập từ thời ông Trần Ngọc Hoằng làm GĐ NTSH. Tội danh "lập quỹ trái phép" theo Điều 166 Bộ luật Hình sự là xử lý hình sự đối với hành vi lập quỹ, chứ không quy định xử lý về hành vi duy trì quỹ. Nếu suy đoán việc duy trì quỹ của bị cáo Sương là lập quỹ trái phép thì Cơ quan điều tra, VKSND, toà án cấp sơ thẩm đã vượt quyền vì chỉ có Uỷ ban Thường vụ QH mới có quyền giải thích luật... Khi bào chữa cho bị cáo Sương, các LS đã nêu ra quan điểm và chứng minh có cơ sở, chứng cứ rõ ràng, nhưng rất tiếc là không được Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm ghi nhận. Theo tôi, trước bức xúc của dư luận hiện nay đối với vụ án này, Uỷ ban Tư pháp Quốc hội nên có ý kiến đề nghị Viện trưởng VKSND Tối cao và Chánh án TAND Tối cao xem xét kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm.
* Nhà báo Sáu Nghệ (Trưởng văn phòng đại diện Báo Tiền Phong tại ĐBSCL): Tội danh cố ý làm trái vẫn chưa xác định được.Từ hồ sơ thanh tra chuyển sang, tháng 4.2008, Công an TP.Cần Thơ khởi tố vụ án hình sự "Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" tại NTSH. Ấy nhưng, khi có kết luận điều tra chỉ đề nghị truy tố về hành vi "lập quỹ trái phép". Việc chưa truy tố tội danh về cố ý làm trái được cho là do chưa tập hợp được đầy đủ tài liệu, chứng cứ xác định thiệt hại cụ thể là bao nhiêu để xử lý (!?). Còn tội danh mới (lập quỹ trái phép), là do trong quá trình điều tra phát hiện quỹ công đoàn. Ngày 16.6.2008, Công an TP.Cần Thơ có quyết định trưng cầu Sở Tài chính TP.Cần Thơ giám định và theo kết quả giám định thì việc gây quỹ công đoàn dưới thời Giám đốc Trần Ngọc Sương là hành vi "lập quỹ trái phép". Theo nhận định của một số chuyên gia pháp luật theo dõi vụ án, lẽ ra giám định tài chính chỉ xác định việc thu - chi quỹ đúng hay sai, không nên kết luận hành vi tội phạm (tức lập quỹ trái phép - thuộc thẩm quyền của cơ quan tố tụng). Như vậy, sau quá trình thanh tra, điều tra tội danh cố ý làm trái vẫn chưa xác định được; còn qua diễn biến của 2 phiên toà sơ thẩm và phúc thẩm, việc lập - và nhất là sử dụng quỹ công đoàn - chưa cho thấy rõ tội như quyết định truy tố...
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Nhân dân có bài "Nâng cao kiến thức pháp luật cho doanh nghiệp". Bài báo phản ánh: Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, việc trao đổi thương mại ngày càng sâu rộng, cùng với đó tranh chấp thương mại xảy ra nhiều hơn. Ðiều này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp Việt Nam phải trang bị đầy đủ kiến thức về luật pháp trong nước và quốc tế, nhằm hạn chế những tranh chấp thương mại và thiệt hại có thể xảy ra. Tuy nhiên, việc trang bị kiến thức pháp luật của doanh nghiệp thời gian qua vẫn bị xem nhẹ và nhiều doanh nghiệp đã phải gánh chịu những thiệt hại không đáng có.
Thực tế cho thấy, trong những năm gần đây, một số doanh nghiệp Việt Nam đã xảy ra tranh chấp trong hoạt động sản xuất, kinh doanh có tính chất quốc tế và phần thua thiệt đa số nghiêng về phía các doanh nghiệp Việt Nam như sự cố tàu Cần Giờ bị Tan-da-ni-a bắt giữ... Cùng với đó là nhiều vụ tranh chấp thương hiệu với một số cá nhân, doanh nghiệp nước ngoài mà cuối cùng doanh nghiệp Việt Nam phải bỏ ra một số tiền lớn để mua lại chính thương hiệu của mình. Ðây là hậu quả của tình trạng "điếc không sợ súng" do nhiều doanh nghiệp chưa quan tâm hoặc "ngại" trang bị kiến thức pháp luật quốc tế. Mặt khác, thực tế này cũng cho thấy sự yếu kém và thiếu của đội ngũ luật sư trong nước.
Theo Trưởng ban Pháp chế Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) Trần Hữu Huỳnh, hiện chỉ có 4/1.000 vụ án hành chính có luật sư tham gia, 70% số hiệp hội doanh nghiệp không có bộ phận pháp chế. Chỉ có chưa đầy 50% số doanh nghiệp cho biết, có thuê luật sư tư vấn về pháp luật trong kinh doanh khi có vụ việc xảy ra. Mặc dù môi trường kinh doanh đã thay đổi từ hệ thống pháp luật thương mại nội địa đơn giản sang hệ thống pháp luật thương mại quốc tế phức tạp, nhưng nhiều doanh nghiệp Việt Nam không kịp tự trang bị cho mình những kiến thức pháp luật cần thiết để đối phó những sự việc phát sinh. Theo nghiên cứu của VCCI, nguyên nhân dẫn đến những rủi ro pháp lý của các doanh nghiệp trong thời gian qua là không am hiểu pháp luật và thông lệ quốc tế, thậm chí có doanh nghiệp không nắm được quy định của pháp luật Việt Nam. Quan trọng hơn, các doanh nghiệp không thấy được vai trò của các cố vấn pháp lý trong đời sống doanh nghiệp nên thiếu quan tâm đầu tư. Ngay trong quá trình dự toán chi phí kinh doanh của các doanh nghiệp cũng không có dự trù tài chính cho việc tư vấn pháp luật. Mặt khác, một số chủ doanh nghiệp có tâm lý ngại thuê luật sư tư vấn vì sợ chi phí cao, chất lượng của luật sư tư vấn trong nước hạn chế.
Hiện nay, có hơn 95% số doanh nghiệp Việt Nam thuộc loại hình vừa và nhỏ. Những doanh nghiệp này là đối tượng dễ tổn thương và luôn chịu thiệt thòi khi có tranh chấp xảy ra. Tuy nhiên, theo Bộ phận Pháp chế của Hiệp hội các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hơn 90% số doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay không có bộ phận pháp chế và không có cán bộ pháp luật. Nhiều doanh nghiệp lớn, mặc dù có cán bộ chuyên trách về pháp luật nhưng vẫn phải thuê luật sư nước ngoài khi có tranh chấp quốc tế vì không đủ trình độ để tranh tụng quốc tế.
Cùng với những yếu kém của doanh nghiệp, chất lượng của đội ngũ luật sư trong nước hiện nay cũng là rào cản rất lớn trong việc trang bị và hỗ trợ kiến thức pháp luật cho doanh nghiệp khi có tranh chấp xảy ra. Theo khảo sát của Bộ Tư pháp, chất lượng đội ngũ luật sư chưa đáp ứng được yêu cầu về cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế. Hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ; cơ chế tranh tụng tại tòa án khá mới mẻ so với luật sư Việt Nam; thiếu luật sư chuyên sâu về các lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại, sở hữu trí tuệ, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, hàng hải, thương mại quốc tế, giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế... Mặc dù hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, trong đó nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đứng nhất nhì thế giới về sản lượng, nhưng hiện cả nước mới có hơn 5.500 luật sư, trong đó chỉ có 30 luật sư có khả năng tranh tụng quốc tế. Ðội ngũ luật sư chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn. Có những tỉnh như Ðiện Biên, Lai Châu những năm trước đây không có đủ số người cần thiết để thành lập Ðoàn luật sư. Theo thống kê, hằng năm có hàng nghìn vụ tranh chấp thương mại, nhưng Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam chỉ xử lý từ 20 đến 25 vụ. Cả nước hiện có năm trung tâm trọng tài thương mại nhưng có đơn vị hầu như không thụ lý được vụ tranh chấp nào.
Theo chúng tôi được biết, hiện nay Bộ Tư pháp đang xây dựng nhiều chương trình hỗ trợ, nhằm nâng cao "bản lĩnh" về pháp luật thương mại quốc tế cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ như Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành cho doanh nghiệp. Qua Chương trình này, cùng với việc được hỗ trợ, tư vấn về pháp luật qua những vụ tranh chấp cụ thể, các doanh nghiệp sẽ thường xuyên được thông tin về các quy định mới của pháp luật, bồi dưỡng kiến thức pháp luật kinh doanh và kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ pháp chế; thiết lập mạng lưới tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại các vùng sâu, vùng xa... Bộ Tư pháp cũng đang khẩn trương hoàn tất và triển khai Ðề án phát triển đội ngũ luật sư phục vụ yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế đến năm 2020 theo hướng tăng cường số lượng luật sư được đào tạo chuyên sâu trong lĩnh vực đầu tư, thương mại lên 1.500 người vào năm 2020 (chiếm 7,5% tổng số luật sư trong cả nước), trong đó số luật sư có khả năng tranh tụng quốc tế là 150 người. Ðội ngũ luật sư sẽ làm việc thông qua tư vấn các vụ việc cụ thể cho cơ quan Chính phủ và làm việc trực tiếp tại các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế... Tuy nhiên, theo các chuyên gia về pháp luật, cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước, các doanh nghiệp cần tự trang bị kiến thức pháp luật cho mình thông qua các chính sách nhằm khuyến khích, thu hút đội ngũ nhân sự hiểu biết sâu rộng về pháp luật trong nước và quốc tế.
2. Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh có bài Thu hút tư nhân đầu tư vào dự án hạ tầng: Luật còn mù mờ. Bài báo phản ánh: Chính sách ưu đãi thuế, lệ phí, bảo lãnh tín dụng... cần phải được áp dụng khi khuyến khích tư nhân đầu tư vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng. Đặc biệt là phải phân định rõ trách nhiệm, quyền lợi của tư nhân khi tham gia vào các dự án điện, đường, cấp nước... Nhiều ý kiến đã tập trung đề xuất tại hội thảo quốc tế về hợp tác nhà nước và tư nhân trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng do Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Thế giới (WB) tổ chức ngày 24-11 tại Hà Nội.
Ông Trần Xuân Hà, Thứ trưởng Bộ Tài chính, nhấn mạnh trong nhiều năm qua, Việt Nam đã rất chú trọng phát triển cơ sở hạ tầng như giao thông, thủy lợi... nhưng thực tế việc đầu tư này còn quá hạn chế so với yêu cầu phát triển của kinh tế-xã hội. Cũng theo ông Hà, vừa qua một số dự án đã có sự tham gia của khu vực tư nhân như dự án Nhiệt điện Phú Mỹ II, dự án BOT cầu Cỏ May (Bà Rịa-Vũng Tàu)... Kết quả thu hồi vốn rất khả quan. Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam chưa có khung pháp lý cho mô hình đầu tư hợp tác giữa nhà nước và tư nhân nên chưa khuyến khích được tư nhân tham gia một cách tích cực.
Đồng tình với ý kiến trên, ông Phạm Sĩ Liêm, Phó Chủ tịch Tổng hội Xây dựng Việt Nam, nhận định cần phân biệt được đối tác công-tư khác với tư nhân hóa. “Hiện mô hình đầu tư hợp tác giữa nhà nước và tư nhân chưa được nhận thức đúng. Mô hình này thu hút sự tham gia của tư nhân vào những lĩnh vực mà theo truyền thống là nhà nước phụ trách. Kể cả các nước phát triển thì đường sá, cấp nước sạch... trước đây đều do nhà nước làm hết nhưng nay họ cũng cần thu hút tư nhân. Ví dụ, nhà máy nước trước đây là do chính quyền địa phương xây dựng nhưng hiện ở TP.HCM có rất nhiều tư nhân vào đầu tư như nhà máy nước Thủ Đức với 300.000 m3 nước mỗi ngày. Đó không phải là tư nhân hóa mà là nhà nước và tư nhân đã kết hợp với nhau.
Để tăng cường mô hình đầu tư hợp tác giữa nhà nước và tư nhân trong thời gian tới, ông Hà cho rằng cần nhất quán chính sách, tức những lĩnh vực nào tư nhân có thể làm được, nhà nước không nhất thiết phải làm thì giao cho tư nhân làm. Những dự án cần có sự hỗ trợ của nhà nước với tư cách cơ quan đảm bảo hoặc với tư cách cơ quan góp vốn thì sẽ triển khai sang mô hình hợp tác. “Rõ ràng là việc phân bổ nguồn lực tài chính của nhà nước như vốn xây dựng cơ bản, vốn ODA cũng cần có sự cơ cấu lại để dành ra nguồn vốn nhất định cho các dự án giữa nhà nước và tư nhân. Đồng thời cần phải cải thiện thủ tục cấp vốn, thanh quyết toán, cơ chế bảo lãnh tín dụng, hay chính sách thuế và phí cho phù hợp để tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực tư nhân tham gia đầu tư cơ sở hạ tầng” - ông Hà đề xuất.
Ông Liêm cho rằng đầu tư đường, điện... thường là không có lãi nhiều mà vốn đầu tư lại rất lớn. Nhưng nhiều ngân hàng không mặn mà cho vay. Trong khi đó, tư nhân thường chỉ có 20%-30% vốn, còn lại phải đi vay. Do đó, Chính phủ phải đứng ra bảo lãnh để ngân hàng giải ngân. Bên cạnh đó, nhà nước phải luôn luôn giám sát, giúp đỡ, đồng thời chia sẻ rủi ro với tư nhân khi thực hiện dự án. Ông Liêm phân tích thêm: Muốn tư nhân đầu tư cơ sở hạ tầng thì nhà nước phải chứng minh được dự án đó có lợi nhuận. Còn với chính quyền, cũng là nhà đầu tư nhưng cách tiếp cận không phải là lợi nhuận mà là lợi ích của người dân. Thế nhưng hiện nhà đầu tư tư nhân gặp rất nhiều rủi ro. Đơn cử việc giá điện tăng nhưng nhà nước lại không cho giá nước tăng theo mà giá nước lại là do HĐND tỉnh quy định. Nhưng nếu không cho doanh nghiệp tăng giá nước thì nguy cơ đóng cửa nhà máy và dẫn đến tình trạng cả thành phố, thị xã sẽ không có nước. Khung pháp lý phải rõ ràng, nếu không dân sẽ thiệt thòi. “Pháp luật phải làm thế nào để dung hòa lợi ích và lợi nhuận. Đồng thời, pháp luật phải quy định rõ trách nhiệm của nhà đầu tư. Nên có những văn bản hướng dẫn cho từng ngành một. Đơn cử như vệ sinh và nước thì giao cho chính quyền địa phương kết hợp với tư nhân thực hiện. Còn các dự án giao thông, cảng... cũng có văn bản quy định riêng thì tính khả thi mới cao hơn” - ông Liêm đề xuất.
3. Báo điện tử Vneconomy phản ánh: Chiều 24/11, Quốc hội thảo luận tại hội trường về dự án Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Đa số các ý kiến phát biểu đều khẳng định sự cần thiết phải ban hành luật, song đều có chung nhận xét dự luật còn nặng về hô hào, động viên, nhẹ chế tài và giải pháp.
Theo đại biểu Trần Hồng Việt, nhiều nội dung của luật giống như  giáo trình đề cương bồi dưỡng đào tạo cán bộ. Ngay từ tên gọi của luật, một số đại biểu cũng chưa tán thành. Có ý kiến đề nghị gọi là luật năng lượng, hoặc là luật tiết kiệm năng lượng hay luật sử dụng năng lượng hợp lý…
Đại biểu Trương Xuân Quý và một số vị đại biểu khác đề nghị mở rộng phạm vi điều chỉnh của dự luật, không nên chỉ nhắm vào người tiêu dùng.
Một số ý kiến cho rằng, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả từ khâu khai thác, sản xuất đến sử dụng các nguồn năng lượng cần phải được điều chỉnh trong luật một cách tổng thể, toàn diện nhằm đáp ứng yêu cầu đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
Theo đại biểu Trần Văn, an ninh năng lượng là vấn đề cần được ưu tiên nhất trong chính sách năng lượng quốc gia. Do đó, trong dự án luật cần có các quy định cụ thể  về đảm bảo an ninh năng lượng theo hướng kết hợp giữa việc khai thác, nhập khẩu, tồn trữ, sử dụng năng lượng (trong đó có cả việc đảm bảo dự trữ đầy đủ năng lượng nhiên liệu hóa thạch trong nước như than, dầu mỏ, khí đốt) trên quan điểm tối ưu hóa việc sử dụng và tăng độ sẵn sàng dự trữ năng lượng. “Thậm chí cần cụ thể hóa quy định đảm bảo an ninh cung cấp điện, an ninh cung cấp sản phẩm dầu mỏ, an ninh cung cấp khí đốt, an ninh cung cấp than…” đại biểu Văn nói.
Đại biểu Nguyễn Văn Phát đề nghị cần có chế tài bắt buộc cơ quan Nhà nước phải sử dụng tiết kiệm năng lượng.
Nhiều đại biểu bày tỏ sự đồng tình với một số ý kiến của Ủy ban Khoa học, công nghệ và Môi trường của Quốc hội khi cho rằng để luật có tính khả thi hơn thì cần làm rõ các khái niệm, giảm bớt các quy định mang tính chính sách, xác định rõ phạm vi, loại hoạt động nào là khuyến khích, loại hoạt động nào bắt buộc phải áp dụng biện pháp sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Không ít ý kiến cho rằng, luật này liên quan đến hầu hết các ngành, tổ chức và cá nhân nhưng số điều, khoản quy định về quản lý sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả chiếm tỷ lệ cao hơn nhiều so với các quy định về quyền, trách nhiệm, nhất là biện pháp thực hiện.
Để luật có tính khả thi cao, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường đề nghị cần bổ sung, cụ thể hóa hơn nữa những quy định liên quan đến quyền và trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước, trách nhiệm và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân; quy trình và thủ tục thực hiện các quyền, nghĩa vụ đó. Cần tham chiếu văn bản pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, điện lực, giao thông, xây dựng và các văn bản pháp luật khác có liên quan để nâng cao tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật; từ đó nâng cao tính khả thi của luật, Chủ nhiệm Đặng Vũ Minh nhấn mạnh.


File đính kèm